Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân xét xử công khai vụ án thụ lý số: 267/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lử Hồng T, sinh năm 1995.

Địa chỉ: ấp V, xã N, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Anh Võ Vũ T, sinh năm 1987.

Địa chỉ: ấp N, xã N, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị T và anh T vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai ngày 03/12/2019, nguyên đơn chị Lử Hồng T trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lử Hồng T và anh Võ Vũ T có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Hòa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 03/9/2013. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng hơn 1,5 năm nay. Nay chị T nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết cho chị được ly hôn với anh Võ Vũ T.

Về con chung: Chị Lử HồngThấm trình bày, trong quá trình chung sống giữa chị T anh T có 01 đứa con chung là cháu Võ Di Khang, sinh ngày 18/12/2013. Hiện tại cháu Võ Di Khang đang sống chung với anh Võ Vũ T. Chị T xác định chị đồng ý giao cháu Võ Di Khang cho chồng chị là anh Võ Vũ T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và chị không phải cấp dưỡng cho cháu Khang.

Về tài sản chung: Chị T xác định giữa chị và anh Võ Vũ T không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, chị không có yêu cầu gì khác.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 06/12/2019, bị đơn anh Võ Vũ T trình bày như sau: Anh T và chị Lử Hồng T tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Hòa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 03/9/2013. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc, nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trang cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly tân vơi nhau khoảng hơn 1,5 năm nay. Nay vợ anh là chị Lử Hồng T yêu cầu ly hôn với anh thì anh đồng ý.

Về con chung: Anh T xác định trong quá trình chung sống giữa anh và chị Lử Hồng T có 01 người con chung là cháu Võ Di Khang, sinh ngày 18/12/2013. Hiện tại cháu Khang đang sống chung với anh T. Anh T yêu cầu được nuôi cháu Võ Di Khang và anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng cho cháu Khang.

Về tài sản chung: Anh Võ Vũ T xác định giữa anh và chị Lử Hồng T không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, anh không có yêu cầu gì khác. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lử Hồng T và anh Võ Vũ T.

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Võ Di Khang, sinh ngày 18/12/2013 cho anh Võ Vũ T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng chị có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3. Về quan hệ tài sản: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Lử Hồng T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Võ Vũ T và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Võ Vũ T có nơi đăng ký thường trú tại ấp N, xã N, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Lử Hồng T và bị đơn anh Võ Vũ T tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị T và anh T.

Về nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lử Hồng T và anh Võ Vũ T có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Hòa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 03/9/2013 nên quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống, chị T và anh T đều xác định có xảy ra nhiều mâu thuẫn, vợ chồng anh chị thường xuyên cự cãi, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng hơn 1,5 năm nay. Nay chị T nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Võ Vũ Thanh và anh T đồng ý. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do chị T và anh T đã sống ly thân khoảng 1,5 năm nay và không liên hệ gì với nhau. Đồng thời tại biên bản lấy lời khai ngày 06/12/2019 của Tòa án với anh T thì anh T đồng ý ly hôn với chị T. Mặc dù anh T đồng ý ly hôn với chị T nhưng khi tiến hành hòa giải để giải quyết vụ án thì anh T vắng mặt (có đơn xin vắng mặt) nên không thể lập biên bản về việc ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành giữa chị T và anh T để Tòa án ra Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh chị được nên Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Vì vậy khi xét xử vụ án, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lử Hồng T và anh Võ Vũ T.

[5] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống, chị T và anh T đều xác định giữa anh chị có 01 người con chung là cháu Võ Di Khang, sinh ngày 18/12/2013. Hiện tại cháu Khang đang sống chung với anh T. Chị T đồng ý giao cháu Võ Di Khang cho anh T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. bên cạnh đó, anh T cũng yêu cầu được nuôi cháu Võ Di Khang và anh không yêu cầu cấp dưỡng cho cháu Khang. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Võ Di Khang, sinh ngày 18/12/2013 cho anh Võ Vũ T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh T không yêu cầu cấp dưỡng cho cháu Khang nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[6] Về quan hệ tài sản: Chị T và anh T xác định không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Lử Hồng T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lử Hồng T.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lử Hồng T và anh Võ Vũ T.

2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Võ Di Khang, sinh ngày 18/12/2013 cho anh Võ Vũ T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị Lử Hồng T không phải cấp dưỡng nuôi cháu Võ Di Khang nhưng chị được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lử Hồng T phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị T đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002828 ngày 03/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;