Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY- TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 190/2019/TLST-HNGĐ ngày 06/9/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/01/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn D, địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 03/9/2019, bản tự khai ngày 24/9/2019, biên bản hòa giải ngày 11/10/2019 cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T đều trình bày: Chị và anh D trước đây yêu nhau và kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 07/02/2006. Sau kết hôn, vợ chồng làm nhà ở riêng, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 12 năm thì mâu thuẫn xảy ra, nguyên nhân do vợ chồng thiếu lòng tin về tình cảm nên thường xuyên gây gổ, xô xát nhau làm mất mát tình cảm. Mặc dù đã được gia đình, bạn bè hai bên động viên, góp ý nhưng tình cảm vợ chồng không thể cải thiện được. Tuy hai người đang ở cùng nhà nhưng cắt đứt quan hệ đã lâu, không ai còn quan tâm gì đến ai nữa. Hiện tại chị T xác định tình cảm giữa chị và anh D thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn.

Bị đơn anh Lê Văn D đã trình bày qua bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 11/10/2019 cũng như tại phiên tòa: Về quá trình tìm hiểu và kết hôn đúng như chị T trình bày, sau kết hôn, vợ chồng sống chung hạnh phúc được 9 năm thì mâu thuẫn xảy ra, nguyên nhân do chị T ngoại tình, anh đã bắt gặp. Sau đó vợ chồng xảy ra cuộc chiến căng thẳng, chị T bỏ vào Nam làm ăn hơn 3 năm, đến đầu năm 2019, chị T trở về, anh nghĩ rằng, chị T cũng đã tỉnh ngộ và thay đổi, không ngờ lại tiếp tục ngoại tình, làm cho cuộc sống vợ chồng đảo lộn mất hết niềm tin. Hiện nay chị T yêu cầu ly hôn, anh xác định tình cảm giữa anh và chị T thực sự đã hết nên anh nhất trí ly hôn.

Con chung: Chị T, anh D trình bày: Vợ chồng có 01 con chung Lê Mạnh H, sinh ngày 26/11/2007. Từ khi vợ chồng ly thân nhau, con ở với anh D. Cả chị T và anh D đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con nhưng tại phiên tòa, chị T tự nguyện thay đổi yêu cầu, để ổn định cuộc sống và đảm bảo điều kiện sinh hoạt, học tập cũng như tôn trọng ý kiến của con, chị chấp nhận giao con cho anh D được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Khi làm đơn ly hôn, chị T yêu cầu giải quyết về tài sản nhưng trong quá trình hòa giải, chị T tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện là không yêu cầu giải quyết về tài sản nữa, chỉ giải quyết về tình cảm và con chung. Tại phiên tòa, anh D cũng không yêu cầu giải quyết về tài sản.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Lê Văn D đăng ký kết hôn với nhau ngày 07/02/2006 tại UBND xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được khoảng 9 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không tin tưởng nhau về mặt tình cảm. Anh D cho rằng chị T ngoại tình, chị T cũng nghi ngờ anh D có tình cảm với người khác dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có niềm tin, sinh ra xúc phạm, mạt sát nhau làm mất mát tình cảm. Tuy hai người còn ở chung nhưng không ai còn quan tâm gì đến ai nữa. Sau khi thụ lý, Tòa án đã tổ chức hòa giải nhiều lần, đồng thời tạo điều kiện về mặt thời gian để anh D, chị T có cơ hội thay đổi trong cách sống và trong suy nghĩ, để bỏ qua những đố kị, mặc cảm đối với nhau nhằm khắc phục, cải thiện lại quan hệ hôn nhân, cùng nhau xây dựng gia đình và nuôi dạy con cái nhưng qua hòa giải cũng như tại phiên tòa, cả chị T và anh D đều xác định tình cảm vợ chồng thực sự đã hết. Chị T yêu cầu được ly hôn, anh D hoàn toàn nhất trí ly hôn.

Xét thấy, tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị T và anh D là phù hợp với Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2]. Về con chung: Chị T, anh D có một con chung, cả anh D và chị T đều yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con, không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy, nguyện vọng của chị T và anh D đều chính đáng nhưng tại phiên tòa, vì tôn trọng ý kiến của con, chị T chấp nhận giao con cho anh D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, do đó, cần công nhận thỏa thuận của chị T và anh D giao con cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con, vì anh D đủ khả năng, điều kiện nuôi con và không yêu cầu là phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3].Tài sản chung: Ngày 06/12/2019, chị T đã nộp đơn xin rút phần yêu cầu khởi kiện về tài sản, tại phiên tòa, chị T giữ nguyên việc rút một phần yêu cầu đó, anh D hoàn toàn nhất trí, đây là sự tự nguyện của đương sự nên cần chấp nhận và đình chỉ về phần yêu cầu giải quyết về tài sản là phù hợp với Điều 5, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4].Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình:

Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Lê Văn D.

2.Về con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử công nhận sự thỏa thuận giữa chị Nguyễn Thị T và anh Lê Văn D, giao con Lê Mạnh H sinh ngày 26/11/2007 cho anh Lê Văn D được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con, vì anh D đủ khả năng, điều kiện nuôi con và không yêu cầu. Chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Áp dụng Điều 5, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự: Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T về yêu cầu giải quyết chia tài sản chung.

4. Án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 6.075.000 đồng chị đã nộp theo biên lai số: 0005842 ngày 03/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ. Chị T được nhận lại tiền tạm ứng án phí còn thừa 5.775.000 đồng.

Chị T, anh D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 16/01/2020, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;