Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 14/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 170/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019, về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2019, quyết định hoãn phiên tòa số 50/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T - Sinh năm 1985.

Địa chỉ: thôn Ch, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn Ngh - Sinh năm 1979.

Địa chỉ: thôn G, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

( Chị T xin vắng mặt, anh Ngh vắng mặt tại phiên tòa lần 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn chị Nguyễn Thị T có yêu cầu khởi kiện và trình bày như sau:

- Về quan hệ hôn nhân:

Chị và anh Ngh tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình vào ngày 06/03/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống tại thôn G xã Q. Cuộc sống vợ chồng sau khi cưới hạnh phúc chỉ được thời gian ngắn thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, chồng toàn lạnh nhạt, đến năm 2007 thì mâu thuẫn ngày càng tăng. Nguyên nhân do anh Ngh suốt ngày rượu chè, cờ bạc, đánh đập vợ con, nhà cửa tan nát, do vậy chị đã bỏ về nhà ngoại ở từ năm 2007, một mình chị nuôi con cho đến nay. Sau khi xảy ra mâu thuẫn hai bên gia đình và hàng xóm đã khuyên giải nhưng anh Ngh vẫn không thay đổi tính nết. Đến nay xác 1 định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được nên chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh Ngh.

- Về quan hệ con chung: Chị và anh Ngh có 01 con chung là Bùi Thái L, sinh ngày 23/01/2005, hiện nay chị đang trực tiếp nuôi con. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con, chị không yêu cầu anh Ngh phải cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Bùi Văn Ngh vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án tiến hành giải quyết vụ án, không có ý kiến gì.

* Kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:

- Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Q, cán bộ đại diện cho Đoàn thể, đại diện chính quyền cung cấp cho biết: Chị T và anh Ngh có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q ngày 06/3/2004. Sau kết hôn anh chị chung sống ở địa phương thời gian ngắn rồi đi làm ăn ở Q, nên về nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể địa phương không nắm được. Anh chị có 01 con chung là Bùi Thái L, sinh ngày 23/01/2005, hiện nay chị T đang trực tiếp nuôi con. Nếu anh chị ly hôn thì Tòa án nên giao con cho chị Tuyết trực tiếp nuôi con. Hiện chị T, anh Ngh và cháu L có hộ khẩu thường trú tại xã Q, anh Ngh đi lao động tự do ở Q. Chị T và anh Ngh không có nhà ở và đất ở tại địa phương. Về nợ vợ chồng chị T có vay của Quỹ tín dũng xã Q số tiền 20.000.000đồng.

- Ngày 05/11/2019 Tòa án có thông báo về việc giải quyết vụ án cho Quỹ tín dũng xã Q biết để có ý kiến về khoản nợ của chị T và anh Ngh. Ngày 28/11/2019 Quỹ tín dũng xã Q có đơn đề nghị không yêu cầu Tòa án giải quyết đòi số nợ đối với chị T và anh Ngh trong vụ án này.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật:

Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Do vợ chồng mâu thuẫn sống ly thân đã lâu, không còn tình cảm, không còn quan tâm đến nhau nữa nên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị T được ly hôn anh Ngh; Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Bùi Thái L, sinh ngày 23/01/2005, hiện nay chị T đang trực tiếp nuôi con, nên đề nghị hội đồng xét xử giao cho chị T trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết;

Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, hội đồng xét xử nhận định:

[I] Về pháp luật tố tụng:

[1] Bị đơn là anh Bùi Văn Ngh có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình, đi làm tự do, thường xuyên vắng mặt tại địa phương, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng anh Ngh không đến Tòa để tham gia tố tụng. Ngày 02/12/2019 chị T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay anh Ngh vắng mặt là lần thứ 2. Vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh Ngh là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án chỉ có nguyên đơn và bị đơn, họ đều vắng mặt nên phiên tòa được tiến hành theo thủ tục quy định tại điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh tại UBND xã Q, và thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân và địa chỉ cư trú của nguyên đơn, bị đơn vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[II] Về pháp luật nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân của chị T và anh Ngh có giấy chứng nhận kết hôn, đó là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng không được hạnh phúc, sống ly thân đã lâu, không còn tình cảm, không còn quan tâm đến nhau nữa. Như vậy chứng tỏ hôn nhân giữa chị T và anh Ngh đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho chị T được ly hôn với anh Ngh là phù hợp với quy định tại điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về quan hệ con chung:

Nên giao cho chị T trực tiếp nuôi con chung là Bùi Thái L, sinh ngày 23/01/2005, vì cháu L hiện đang ở với chị T, được chăm sóc tốt. Như vậy là phù hợp với với quy định tại điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về tài sản chung:

Chị T không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung, anh Ngh không có lời khai, nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí:

Chị T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Bùi Văn Ngh.

2. Về con chung:

- Giao cho chị T trực tiếp nuôi con là Bùi Thái L, sinh ngày 23/01/2005 đến khi con đủ 18 tuổi.

- Anh Ngh có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

Chị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị T đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001442 ngày 30/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chị T đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Án xử công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 14/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;