Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

 BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ LY HÔN

 Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:388/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 240/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hoàng O, sinh năm: 1964; Địa chỉ: số 396, ấp P, xã L, huyện G, tỉnh B.

- Bị đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm: 1963; Địa chỉ: số 396, ấp P, xã L, huyện G, tỉnh B.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06/10/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Hoàng O trình bày:

Bà và ông Lê Văn H chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào ngày 25/9/1996.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc chỉ có vài năm đầu đến khi sinh con thì thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân chính xảy ra mâu thuẫn là bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng, ông H thường xuyên say xỉn, bạo hành gia đình, đánh đập bà nhiều năm và xúc phạm đến bà cũng như gia đình bà. Hôn nhân không có hạnh phúc và vợ chồng chính thức chia tay và chấm dứt quan hệ vợ chồng cách nay khoảng trên 02 năm nay. Do tình cảm vợ chồng không còn nữa nên bà có yêu cầu ly hôn với ông H.

Trong quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là: Lê Trường Duy, sinh ngày: 29/7/1987 và Lê Trường Sang, sinh ngày 09/12/1990. Hiện cả 02 con chung đều đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được.

Về tài sản chung: không tranh chấp, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã thông báo và tổ chức các phiên hòa giải nhưng ông H đều vắng mặt không lý do.

Do không thể tiến hành hòa giải được, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã đưa vụ án ra xét xử vào ngày 22 tháng 12 năm 2020, ông H vắng mặt.

Tại phiên tòa sơ thẩm được mở lại vào ngày hôm nay, ông H vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: Ông Lê Văn H là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không lý do. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông H.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hoàng O và ông Lê Văn H chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào ngày 25/9/1996 nên quan hệ hôn nhân của ông bà được coi là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Vợ chồng bà Hoàng O, ông H cùng chung sống với nhau thời gian dài. Trong quá trình chung sống, bà O cho rằng bà và ông H chỉ sống hạnh phúc có thời gian đầu đến khi bà sinh con thì xảy ra mâu thuẩn vợ chồng, không còn hạnh phúc nữa nhưng bà cố gắng chịu đựng vì thương con. Theo bà Hoàng O thì nguyên nhân chính xảy ra mâu thuẫn là bất đồng quan điểm, ông H thường xuyên say xỉn, bạo hành gia đình, đánh đập bà nhiều năm và xúc phạm đến bà cũng như gia đình bà nên vợ chồng đã chia tay và chấm dứt quan hệ vợ chồng đã hơn 02 năm, không có thời gian đoàn tụ.

Hội đồng xét xử xét thấy bà Hoàng O và ông H đã sống ly thân với nhau đã hơn 02 năm, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, ông bà không còn quan tâm chăm sóc nhau như vợ như chồng. Do bà Hoàng O không còn tình cảm vợ chồng với ông H nữa nên ông có yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với ông H. Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên hòa giải với mục đích là hòa giải cho ông bà đoàn tụ. Tuy nhiên, ông H đã bỏ mặc không tham gia. Mặt khác, trong thời gian ly thân ông H và bà Hoàng O cũng không quan tâm chăm sóc cho nhau, không cùng cải thiện tình trạng hôn nhân của ông bà. Tòa án đã động viên bà Hoàng O trở lại hàn gắn đoàn tụ nhưng bà Hoàng O vẫn cương quyết yêu cầu xin ly hôn với ông H.

Xét thấy tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Hoàng O là phù hợp.

- Về con chung: Bà Hoàng O và ông H có 02 con chung là: Lê Trường Duy, sinh ngày: 29/7/1987 và Lê Trường Sang, sinh ngày 09/12/1990. Hiện cả 02 con chung đều đã trưởng thành, đủ 18 tuổi và tự lao động sinh sống được nên bà Hoàng O không có yêu cầu xem xét về con chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét về con chung của bà Hoàng O và ông H.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Hoàng O cho rằng không có tranh chấp về tài sản chung, vợ chồng đã tự giải quyết và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do ông H không đến Tòa để giải quyết về việc ly hôn nên không xem xét được ông H có yêu cầu về việc tranh chấp tài sản chung hay không. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

- Về án phí: Bà Nguyễn Thị Hoàng O phải án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bà Nguyễn Thị Hoàng O được ly hôn với ông Lê Văn H.

2. Về con chung: Ghi nhận bà Nguyễn Thị Hoàng O và ông Lê Văn H 02 con chung là: Lê Trường Duy, sinh ngày: 29/7/1987 và Lê Trường Sang, sinh ngày 09/12/1990. Hiện cả 02 con chung đều đã trưởng thành, đủ 18 tuổi và tự lao động sinh sống.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

4. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Hoàng O phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Hoàng O đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003948 ngày 20 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm; bà Hoàng O đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày: Đối với nguyên đơn có mặt tại Tòa thì kể từ ngày tuyên án; Đối với bị đơn vắng mặt tại Tòa thì kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy Ban nhân dân xã nơi cư trú của bị đơn; có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

373
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;