TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 30/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toa an nhân dân huyên Yên Châu , tỉnh Sơn La xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HS ngày 19/12/2019 đối với bị cáo:
Sồng Lao T, sinh năm 1992; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản S, xã C, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 02/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Sồng Lao L (Đã chết), con bà Thào Thị V, sinh năm 1956, vợ Tếnh Thị V, sinh năm 1994 và 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 03/10/2019, đến nay có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Tòng Văn Minh – trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Tếnh Thị V, sinh năm 1994. Trú tại: Bản S, xã C, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ 00 phút, ngày 03/10/2019 tại bản S, xã C, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La tổ công tác Công an huyện Yên Châu phối hợp với Công an xã C và Đồn biên phòng Chiềng On phát hiện bắt quả tang Sồng Lao T, sinh năm 1992 đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ:
- 02 gói nilon màu hồng bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine;
- 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa 05 viên nén hình tròn nghi là Methamphetamine; 01 xe máy gắn biển kiểm soát 26K8-1521.
Ngày 04/10/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Châu phối hợp với phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La tiến hành cân tịnh xác định khối lượng và trích rút mẫu giám định số ma túy của Sồng Lao T: 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa cục bột màu trắng có khối lượng 0,04 gam kí hiệu T1; 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa cục bột màu trắng có khối lượng 0,1 gam kí hiệu T2; 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa 05 viên nén hình tròn màu hồng có khối lượng 0,48 gam kí hiệu T3. Các mẫu T1, T2, T3 gửi giám định ma túy tại phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La.
Tại kết luận giám định số 1549/KLMT ngày 09/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
- Mẫu kí hiệu T1, T2 là ma túy; loại Heroine, khối lượng mẫu gửi giám định T1 = 0,04 gam; mẫu T2 = 0,1 gam.
- Mẫu kí hiệu T3 là ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,48 gam.
Quá trình điều tra Sồng Lao T khai nhận: Khoảng 15 giờ, ngày 03/10/2019 Sồng Lao Trang một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 26K8-1521 đến bản Nà Khạng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào gặp một người đàn ông dân tộc Mông (không biết tên, địa chỉ) qua trao đổi Trang mua được 02 gói Heroine với giá 100.000 đồng và 01 gói chứa 05 viên hồng phiến với giá 50.000 đồng, có được ma túy T cất giấu trong người rồi điều khiển xe máy đi về đến bản S, xã C, huyện Yên Châu thì bị bắt quả tang thu giữ vật chứng nêu trên.
Bản cáo trạng số: 01/CT-VKSYC ngày 17 tháng 12 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La truy tố: Sồng Lao T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Sồng Lao Trang từ 14 tháng đến 18 tháng tù giam.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì giấy niêm phong là tang vật vụ án Sồng Lao T, bên trong gồm: 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở + 03 mảnh nilon màu hồng; 01 biển kiểm soát 26K8-1521.
Trả lại cho Tếnh Thị V 01 xe máy không rõ nhãn hiệu, không biển kiểm soát.
Án phí: Bị cáo thuộc đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn của huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo đọc bản luận cứ bào chữa và đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, để xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 14 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Sồng Lao Trang.
Lời nói sau cùng bị cáo tỏ thái độ ăn năn về hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
1 Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
2 Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Sồng Lao T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra, số ma túy bị thu giữ có nguồn gốc là do ngày 03/10/2019 bị cáo mua của người đàn ông dân tộc Mông, không biết tên tuổi, địa chỉ với giá 150.000 đồng mục đích mang về để sử dụng cho bản thân. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện.
Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Sồng Lao T do tổ công tác Công an huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La lập hồi 17 giờ 00 phút, ngày 03/10/2019; biên bản thu giữ vật chứng, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định, bản kết luận giám định số 1549/KLMT, ngày 09/10/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là chất ma túy, loại Heroine và loại Methamphetamine. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ.
3 Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo tàng trữ khối lượng 0,14 gam chất ma túy, loại chất Heroine và 0,48 gam loại chất Methamphetamine, đã vi phạm điểm i “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này” khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy.
4 Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo là phù hợp.
5 Về vật chứng:
Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có 03 mảnh nilon màu hồng và phong bì niêm phong đã bóc mở. Xét là vật không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với biển kiểm soát 26K8-1521 có căn cứ xác định do gia đình bị cáo nhặt được không phải là biển biển kiểm soát chiếc xe máy thu giữ của bị cáo, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 xe máy do bị cáo Sồng Lao T sử dụng đi mua ma túy, xét thấy tài sản trên thuộc sở hữu chung của gia đình bị cáo, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy không có công đóng góp trong việc tạo dựng tài sản trên, mặt khác đây là tài sản duy nhất của gia đình, giá trị thấp, do vậy tài sản trên thuộc quyền quản lý hợp pháp của chị Tếnh Thị V (vợ bị cáo), chị V không biết Trang dùng xe máy vào việc phạm tội nên không có lỗi, cần tuyên trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
6 Về các vấn đề khác:
Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai mua của người đàn ông dân tộc Mông, không quen biết, không biết địa chỉ nên Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Châu không có cơ sở điều tra, xác minh.
Về án phí: Bị cáo thuộc đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn của huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cần miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Sồng Lao T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Sồng Lao T 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt ngày 03/10/2019.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì giấy niêm phong là tang vật vụ án Sồng Lao T, bên trong gồm: 01 phong bì niêm phong ban đầu + 03 mảnh nilon màu hồng; 01 biển kiểm soát 26K8-1521.
Trả lại cho Tếnh Thị V: 01 xe máy không rõ nhãn hiệu, xe không cánh yếm trước và sau, không gương chiếu hậu, không đồng hồ, không chìa khóa, không giấy tờ, xe cũ đã qua sử dụng.
3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội , miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 30/12/2019).
Bản án 01/2019/HS-ST ngày 30/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 01/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về