Bản án 01/2019/HSST ngày 17/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 01/2019/HSST NGÀY 17/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2018/HSST ngày 17 tháng 12 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh T. Tại Tiền Giang. Nơi đăng ký HKTT: ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Tiền Giang. Nơi cư trú: ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: làm mướn; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Kim P; Vợ, con: chưa có. Tiền sự: không;

Tiền án: 02 lần, cụ thể như sau:

- Lần 1: Ngày 26/11/2008, bị Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội: “Cướp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/9/2013.

- Lần 2: Ngày 30/9/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 30 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản’, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/7/2017.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/10/2018 đến ngày 13/10/2018, chuyển sang tạm giam đến nay.

- Người bị hại: Bà Lê Thị Bạch T, sinh năm: 1954. Địa chỉ: Ấp T 1, xã T, huyện T, tỉnh Long An.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Kim P. Địa chỉ: ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Minh T. Địa chỉ: Ấp T1, xã T, huyện T, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Thanh T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 10/10/2018, Nguyễn Thanh T đã dùng xe mô tô biển số 63B9-95816 từ nhà trọ Ba Hận thuộc ấp Bình Trị 1, xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành tình Long An đến cống Năm Bắc để mua thuốc lá nhưng không có, bị cáo quay về nhà trọ thấy tiệm tạp hóa của bà Lê Thị Bạch T thì nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của bà T để sử dụng. Bị cáo trèo tường vào bên trong lấy các tài sản gồm: 01 bịch Nescafe 3 in 1, trong lượng 782 g; 06 dây dầu gọi đầu Clear 06g x 5,8ml; 06 dây dầu gọi đầu Dove 06g x 5,8ml; 02 chai dầu gọi đầu Clear 631ml; 02 hợp caphe phố, loại 10 gói 24g/hộp; 01 hộp kem đánh răng P/S loại 180g; 10 gói thuốc lá điếu đầu lọc hiệu Hòa Bình; 01 chai dầu hào Maggi loại 150g; 01 bịch bột ngọt hiệu Ajnomoto loại 400g; 01 hộp yến sào Khánh Hòa; 01 thùng mì Unif bò rau thơm 30 gói x 72g bỏ tất cả vào bịch rồi trèo ra ngoài bằng đường cũ thì người dân phát hiện và báo dân phòng ấp và Công an xã Phú Ngãi Trị bắt giữ và thu giữ tang vật trên.

Tại kết luận định giá số 29/KL-HĐĐG ngày 18/10/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, tỉnh Long An đã kết luận giá trị định giá như sau: 01 bịch Nescafe 3 in 1, trọng lượng 782g: 88.000 đồng, 06 dây dầu gọi đầu Clear 0,6gx 5,8ml: 84.000 đồng, 06 dây dầu gọi đầu Dove 0,6gx 5,8ml: 84.000 đồng, 02 chai dầu gội đầu clear loại 631ml: 240.000 đồng, 02 hộp cà phê phố, loại 10 gói 24g/hộp: 66.000 đồng, 01 hộp kem đánh răng P/S loại 180g: 19.000 đồng, 10 gói thuốc lá điếu đầu lọc hiệu Hòa Bình: 100.000 đồng, 01 chai dầu hào Maggi loại 150g: 10.000 đồng, 01 bịch bột ngọt hiệu AJNOMOTO loại 400g: 27.000 đồng, 01 hộp yến sào Khánh Hòa: 195.000 đồng, 01 thùng mì UNIF bò rau thơm 30 gói x 72g: 88.000 đồng. Tổng cộng: 1.001.000 đồng. Bị cáo không có ý kiến gì kết quả định giá.

Trong quá trình điều tra bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với lời khai của người liên quan; người làm chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 02/CT-VKSCT ngày 14/12/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Tùng về tội: “ trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 173; điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và các điều 38, 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 63B9-958.16 bị cáo T sử dụng vào việc trộm cắp tài sản là của bà Nguyễn Kim P, bà P không biết xe do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành không xử lý là phù hợp, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản tạm giữ không có liên quan đến việc phạm tội cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Châu Thành đã trả lại cho bị hại, người liên quan xong và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo, bà P không tranh luận. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên Tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 10/10/2018, Nguyễn Thanh T đã dùng xe mô tô biển số 63B9- 958-16 từ nhà trọ Ba Hận thuộc ấp Bình Trị 1, xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành tình Long An đến cống Năm Bắc để mua thuốc lá. Khi về đến tiệm tạp hóa của bà Lê Thị Bạch T, bị cáo Tùng nảy sinh ý định trộm cắp một số tài sản của bà T tổng cộng giá trị qua định giá là 1.001.000 đồng để sử dụng cá nhân thì bị nhân dân phát hiện và bắt giữ.

[3]. Tại phiên toà hôm nay bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; Lời khai nhận tội của bị cáo T tại phiên tòa phù hợp với lời trình bày trong quá trình điều tra vụ án, phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4]. Đối với hành vi của bị cáo T trộm cắp tài sản của bị hại bà Lê Thị Bạch T với số tiền là 1.001.000 đồng. Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường chưa được xóa án tích nên hành vi của bị cáo đã đủ cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,169, 170, 171, 172 174 175 và 290 của bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;…”

[5]. Xét thấy, hiện nay tình hình trộm cắp tài sản của người khác tại địa phương huyện Châu Thành ngày một tăng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính xem thường pháp luật. Bị cáo thích hưởng thụ, bản thân lười lao động, không tự kiếm sống để nuôi bản thân, hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự và gây hậu quả xấu ở địa phương, gây mất đoàn kết trong nhân dân. Để lập lại trật tự kỷ cương của pháp luật, nghĩ cần tuyên cho bị cáo một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, thì mới đề cao tính nghiêm minh của pháp luật cũng như răn đe và phòng ngừa chung. Bị cáo đã bị xét xử về tội trộm cắp tài sản, cướp tài sản và chưa được xóa án tích nên xét cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải sửa bản thân, là người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình nghị án cần xem xét đến nhân thân của bị cáo để có mức hình phạt tương xứng. Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo Tùng thật thà khai báo, ăn năn hối cải; chưa gây thiệt hại về tài sản; bị cáo có bà nội là mẹ Việt Nam anh hùng, có hai bác ruột là liệt sĩ, thuộc điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Với các chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ kết luận bị cáo T phạm tội “cố ý gây thương tích” mà Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[7]. Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt như trên là có căn cứ. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo mức án như trên là phù hợp.

[8]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người liên quan đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điều 38, 50 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (một) năm tù. Thời gian tù được tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 10/10/2018.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng tại khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Tùng phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ nhà nước.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2019/HSST ngày 17/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;