Bản án 01/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 14/01/2019 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 14 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, Đồng Tháp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 51/2018/HS-ST ngày 03/12/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử kín số:53/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo: Nguyễn Văn Chí L, sinh năm: 1996, tại Đồng Tháp. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa:12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Cu A và bà Mai Thị H; Anh chị em: có 01 người em, vợ con: chưa. Tiền án, tiền sự: Không.

Tạm giam: ngày 06/11/2018. Bị cáo đang bị tạm giam và có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Nguyễn Thị Ngọc C, sinh ngày: 30/5/2005; ( Có mặt) Trú tại: Ấp K, xã X, huyện M, Đồng Tháp.

- Đại diện hợp pháp cho người bị hại: Ông Nguyễn Cà K, sinh năm: 1983 và bà Huỳnh Thị Thúy M, sinh năm: 1985. Cùng trú tại: Ấp K, xã X, huyện M, Đồng Tháp (Ông K có văn bản ủy quyền cho bà M).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại: Ông Thái Quang Trí - luật sư, Văn Phòng Luật sư Chính Nghĩa – Đoàn luật sư tỉnh Đồng Tháp thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đồng Tháp.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn Văn Cu A, sinh năm 1971;

+ Bà Mai Thị H, sinh năm 1970;

Cùng trú tại: Ấp T, xã B, N, Đồng Tháp.

- Người làm chứng:

+ Bùi Văn L, sinh năm: 2001;

+ Nguyễn Thị R, sinh năm: 1974;

Cùng trú tại: Ấp 1, xã 2, huyện 3, Đồng Tháp.

+ Mai Thị B, sinh năm: 1983; Trú tại: Ấp 4, xã 5, huyện 6, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 03/9/2018, Nguyễn Thị Ngọc C, sinh ngày 30/5/2005, cư trú Ấp K, xã X, huyện M, Đồng Tháp đến nhà bà Võ Thị Thu Q (là bà ngoại của C), sinh năm1962, cư trú ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh Đồng Tháp chơi. Tại đây C sử dụng Zalo tên “NL”, qua nhắn tin làm quen với Nguyễn Văn Chí L, sinh năm 1996, cư trú ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh Đồng Tháp, tên Zalo “KC”. Sau khi làm quen bị can L rủ C đi chơi, khoảng 20 giờ cùng ngày L điều khiển xe mô tô biển số 66FD - 00000 chở C đến nhà bạn của L tên Bùi Văn L, sinh năm 2001, cư trú ấp T, xã C, huyện B, tỉnh Đồng Tháp để uống rượu. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì L nói để đưa C về nhà nhưng C không đồng ý, nên L hỏi L cho L và C ngủ tại nhà của L, do uống nhiều rượu và trời tối nên L đồng ý rồi L ra phía sau nhà ngủ còn L và C ngủ chung trong căn buồng của L, khoảng 30 phút sau L thực hiện hành vi giao cấu với C một lần, đến khoảng 02 giờ rạng sáng ngày 04/9/2018 thì L tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu với C lần thứ hai. Đến 03 giờ ngày 04/9/2018 L chở C đến nhà bà Mai Thị B, sinh năm 1983, cư trú ấp T, xã A, huyện V, tỉnh Đồng Tháp (dì ruột của L) chơi, đến khoảng 18 giờ cùng ngày thì L tiếp tục chở C đến nhà ông Nguyễn Văn Y, sinh năm 1937, cư trú ấp 6, xã X, huyện M, tỉnh Đồng Tháp ( ông nội của C ), còn L thì điều khiển xe mô tô về nhà của mình, đến khoảng 20 giờ ngày 04/9/2018 bà Huỳnh Thị Thúy M ( mẹ ruột của C) đến nhà ông Y để rước C về và C đã kể lại sự việc bị L thực hiện hành vi quan hệ tình dục với mình tại nhà của L, sau đó bà M chở C đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Bình để trình báo sự việc.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 05/9/2018: Hiện trường nơi xảy ra vụ việc là nhà của bà Nguyễn Thị C, sinh năm: 1974 thuộc ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Đồng Tháp (mẹ của L), có diện tích dài 16m, rộng 4,50m, vách và mái bằng tol, gồm có ba ngăn: Ngăn trước, kế tiếp là phòng ngủ nền được lót gạch tàu, ngăn sau được lót ván gỗ, cửa trước và cửa sau được làm bằng khung gỗ lót tol, phòng ngủ có kích thước: dài 3,40m, rộng 2,70m, cửa chính bằng khung gỗ lót tol kích thước: Ngang 0,80m, cao 1,60m, trong phòng ngủ bố trí một giường hộp gỗ được đặt sát vách hướng nam và tây kích thước: dài 2,60m, rộng 1,67m, cao 0,45m, trên được lót nệm và chiếc chiếu kích thước: dài 1,90m, rộng 1,60m, trên mặt chiếu có một chiếc mền màu đỏ trắng có hoa vân kích thước: dài 2,07m, rộng 1,82m, phía trên có mắc một mùng vải có hoa vân trắng, đen kích thước: dài 2m, rộng 1,47m, cao 1,90m.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 65/TD-TTPY, ngày 04/9/2018, của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Tháp kết luận đối với Nguyễn Thị Ngọc C, âm hộ không tổn thương; màng trinh dãn, không rách; mép ngoài màng trinh xước vị trí 09 giờ, 06 giờ rịn máu.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Bình, Nguyễn Văn Chí L thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng tạm giữ, gồm: thu giữ của Nguyễn Văn Chí L 01 quần lững kaki màu đen, có nhãn hiệu Pashino, 01 áo thun ngắn tay, màu trắng, 01 quần lót nam, màu đen, viền lưng màu xám nhãn hiệu Puma, điện thoại di động, nhãn hiệu SAMSUNG galaxy T2P10, màu xanh, óp lưng bằng nhựa màu trắng, bên trong điện thoại có 02 sim số gồm: 00000000000 và 00000000001 (tất đã qua sử dụng); thu giữ tại nhà bà Nguyễn Thị C 01 mùng vải, 01 chiếc chiếu, 01 mềm màu đỏ trắng có hoa vân. Ngày 10/9/2018, Huỳnh Thị Thúy M đến Cơ quan điều tra tự nguyện giao nộp 01 áo thun tay dài màu đỏ trắng, 01 quần thun dài màu đen, 01 quần lót nữ màu trắng hồng của bị hại C. Ngày 22/11/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Bình đã tiến hành trao trả lại các vật chứng nêu trên cho bị can L, bà C và bà M xong.

Đối với xe mô tô biển số 66FD - 00000 do Nguyễn Văn Chí L điều khiển chở Nguyễn Thị Ngọc C vào ngày 03/9/2018. Qua xác minh: Chiếc xe gắn máy nêu trên do ông Nguyễn Văn Cu A, sinh năm 1971, cư trú ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh Đồng Tháp (cha ruột bị can L) là chủ sở hữu, ngày 03/9/2018 bị can L sử dụng chiếc xe gắn máy để chở C đến nhà bà Nguyễn Thị R (mẹ ruột của L) chơi, ông Cu A không biết. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Bình đã trao trả xe lại cho ông Nguyễn Văn Cu A xong.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Huỳnh Thị Thúy M là người đại diện hợp pháp cho bị hại yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn Chí L, bồi thường danh dự, nhân phẩm là 5.000.000đ, tổn thất tinh thần 15.000.000đ và sức khỏe cho bị hại C là 10.000.000đ, tổng cộng số tiền là 30.000.000đ. Ngày 30/10/2018, ông Nguyễn Văn Cu A (cha ruột bị cáo L) thay bị cáo đã bồi thường cho bị hại C ( bà Huỳnh Thị Thúy M là mẹ bị hại) nhận số tiền 30.000.000 đồng xong. Ngày 31/10/2018, bà Huỳnh Thị Thúy M, đã gửi đơn yêu cầu không xử lý hình sự đối với bị can Nguyễn Văn Chí L.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Văn Cu A, Bà Mai Thị H ( là cha mẹ của bị cáo L thay bị cáo L khắc phục hậu quả bồi thường cho bị hại C số tiền 30.000.000đ. Tại Tòa ông Cu A với bà H không ý kiến, yêu cầu giải quyết.

Bản cáo trạng số 52/CT-VKS ngày 30/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Chí L về tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo L phạm tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi"; áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1,2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo L từ 01 năm, 06 tháng đến 02 năm năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường xong, đại diện hợp pháp của bị hại C không yêu cầu bồi thường gì khác nên không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Đã giải quyết xong, không xem xét giải quyết

- Bị cáo bị cáo L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình gây ra đúng như cáo trạng Viện kiểm sát;

- Người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

- Luật sư Thái Quang Trí là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nhất trí với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Bình, truy tố bị cáo Nguyễn Văn Chí L về tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” và phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên do đại diện hợp pháp của bị hại là chị M và anh K có đơn xin không yêu cầu xử hình sự, đã bồi thường trách nhiệm dân sự xong, không ý kiến và yêu cầu về trách nhiệm dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giãm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn Chí L.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Văn Chí L xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được kiểm tra tại phiên tòa, phù hợpvới Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 65/TD-TTPY, ngày 04/9/2018, của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Tháp kết luận đối với Nguyễn Thị Ngọc C, âm hộ không tổn thương; màng trinh dãn, không rách; mép ngoài màng trinh xước vị trí 09 giờ, 06 giờ rịn máu.

[3] Xét thấy hành vi bị cáo L đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức được việc giao cấu với trẻ em là vi phạm pháp luật hình sự. Nhưng do vì ham muốn, dục vọng, không kiềm chế được bản thân, bị cáo vẫn bất chấp, xem thường pháp luật, đã thực hiện hành vi giao cấu với người bị hại còn ở tuổi trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, để nhằm thỏa mãn dục vọng của bản thân. Hành vi đó đã xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất, sức khỏe và tình thần cũng như xâm phạm đến danh dự và nhân phẩm của bị hại.

[4] Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và đã phạm tội " Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” thuộc thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm tù:

a) Phạm tội 02 lần trở lên.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật an ninh xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất, sức khỏe và tinh thần cũng như xâm phạm đến danh dự và nhân phẩm của bị hại và gia đình người bị hại, ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của người dân lao động, gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần thiết phải đưa ra xét xử nghiêm trước pháp luật, áp dụng một mức hình phạt tù phù hợp với hành vi và mức độ phạm tội của bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội, cũng nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử có cân nhắc, xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và thái độ của bị cáo mà xét giảm nhẹ phần nào hình phạt, do trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo hưởng mức hình phạt dưới khung là phù hợp theo điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 ,54 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường về tổn thất tinh thần 15.000.000đ, danh dự, nhân phẩm 5.000.000đ và sức khỏe bị xâm phạm là 10.000.000đ , tổng cộng 30.000.000đ cho bị hại xong, đại diện hợp pháp của bị hại C là chị Huỷnh Thị Thúy M không yêu cầu bị cáo Chí L bồi thường thêm gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Văn Cu A, Bà Mai Thị H ( là cha mẹ của bị cáo L thay bị cáo L khắc phục hậu quả bồi thường cho bị hại C số tiền 30.000.000đ. Tại Tòa ông Cu A với bà H không ý kiến, yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Đã giải quyết xong, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Đối với đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử thấy rằng quan điểm của Viện kiểm sát là phù hợp với chứng cứ đã có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa, việc truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên được Hội đồng xét xử xem xét để giải quyết.

[7] Đối với ý kiến của Luật sư Thái Quang Trí là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nhất trí với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Bình, truy tố bị cáo Nguyễn Văn Chí L về tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” và phải chịu trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giãm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn Chí L là có cơ sở, nên được Hội đồng xét xử xem xét để giải quyết.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[9] Bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp người bị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

[10] Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, 54 điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Chí L đã phạm tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Chí L 01 (một ) năm 06 (sáu) tháng tù. 

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam: Ngày 06/11/2018.

2.Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và chị Huỳnh Thị Thúy M ( mẹ ruột của bị hại C) đã tự thỏa thuận giải quyết xong, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Văn Cu A, Bà Mai Thị H ( là cha mẹ của bị cáo L thay bị cáo L khắc phục hậu quả bồi thường cho bị hại C số tiền 30.000.000đ. Tại Tòa ông Cu A với bà H không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3.Về vật chứng: Đã giải quyết xong, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5.Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 án phí, lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Nguyễn Văn Chí L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

6. Bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp người bị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự, sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự, sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

491
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 14/01/2019 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;