Bản án 01/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 01 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 98/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2018/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Xuân T, sinh năm 1987 tại huyện (nay là thị xã) Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: Thôn L2, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Xuân Th và bà Trần Thị V; Có vợ là Dương Hoài L và hai con (con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2015); Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị tạm giữ từ ngày 24 tháng 9 năm 2018 đến ngày 26 tháng 9 năm 2018 được cho tại ngoại. Có mặt.

- Bị hại:

1. Anh Nguyễn Trọng N, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn L1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

2. Chị Đào Thị N, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn L1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Sơn L, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Thôn L1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Những người làm chứng: Chị Lê Thị T, ông Trương Thạch N và anh Trần Văn H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 18 tháng 9 năm 2018, Lê Xuân T trên đường đi bộ từ khu vực ngã tư chợ L, xã H về nhà tại thôn 2, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh thì gặp mưa, T vào cửa nhà anh Nguyễn Trọng N (thôn L1, xã H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) để trú mưa thì nhìn thấy tại sân nhà anh N có một xe môtô màu trắng, hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 14Z1 – … được phủ bạt, trên yên xe buộc ba thùng đựng các loại quả gồm có: Thanh long, cam và bòng. Bánh sau của xe môtô bị khóa bằng loại khóa chữ U. T liền lấy tuốc- nơ - vít (có sẵn trên người) phá mở khóa bánh và khóa điện của xe. Khi mở được khóa, T nổ máy và điều khiển xe môtô đi về hướng phường V, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Khi đi đến khu vực thôn H, xã H, thị xã Đông Triều T đã vứt ba thùng hoa quả xuống lề đường (Quốc lộ 18) rồi đi tiếp. Khi đến dốc Qi, xã T, thành phố Uông Bí, T tháo biển kiểm soát cho vào cốp xe rồi vứt tuốc - nơ - vít xuống vực, sau đó vào nhà chị Lê Thị T (là chị gái ruột của T) để ngủ.

Đến khoảng 07 giờ sáng cùng ngày, T điều khiển chiếc xe mô tô nêu trên đến nhà anh Trương Thạch N (trú tại thôn T, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh) chơi, trên đường đi, Tt được một chiếc biển số xe 17- F9 … vứt ở lề đường nên đã lấy và cho vào cốp xe. Tại nhà anh N, T đã lắp biển số xe 17- F9 … vào xe môtô và ném biển kiểm soát 14Z1 - … lên đỉnh màn nhà anh N. Đến khoảng 15 giờ chiều cùng ngày, T đến nhà anh Trần Văn H (thuộc thôn L1, xã H, thị xã Đ) và nhờ anh H dẫn vào nhà anh Trần Sơn L để cầm cố chiếc xe, anh L đồng ý cầm cố chiếc xe với giá 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng), sau đó T đã sử dụng hết số tiền trên. Khi biết chiếc xe mô tô do T trộm cắp, ngày 24 tháng 09 năm 2018 anh L đã tự nguyện giao nộp chiếc xe cho cơ quan điều tra. Ngày 28 tháng 09 năm 2018, Cơ quan điều tra đã thu giữ của Lê Xuân T một chiếc biển kiểm soát 14Z1 – …. Ngày 03 tháng 10 năm 2018, Cơ quan điều tra đã thu giữ của anh Nguyễn Trọng N một khóa chữ “U” do anh N giao nộp.

Tại các Bản kết luận định giá tài sản số 54/KL-HĐĐGTS ngày 26 tháng 9 năm 2018 và số 70/ KL-HĐĐGTS ngày 22 tháng 11 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Đông Triều đã kết luận: Một chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14Z1 – … nhãn hiệu Yamaha Sirius có giá trị 7.600.000 đ (Bảy triệu sáu trăm nghìn đồng); Hai thùng quả thanh long ruột đỏ loại to khối lượng 120 kg có giá trị 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng); một thùng cam sành miền nam khối lượng 30kg có giá trị 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng); 20 quả bòng đào mô lô có giá trị 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản T đã chiếm đoạt là 12.950.000 đ (Mười hai triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 103/CT-VKS-ĐT ngày 30 tháng 11 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Lê Xuân T về tội "Trộm cắp tài sản" theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và luận tội có quan điểm: Vẫn giữ nguyên quan điểm như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Xuân T phạm tội "Trộm cắp tài sản", áp dụng Khoản 1 Điều 173; các Điểm b, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; các Khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy một chiếc biển số xe mô tô 17- F9 ....

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì đối với luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Triều, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá về hành vi của bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều đã truy tố:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Lê Xuân T đều khai nhận:

Vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 18 tháng 9 năm 2018, trong khi đang trú mưa thì bị cáo thấy tại sân nhà anh Nguyễn Trọng N (thôn L1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh) có một chiếc xe môtô màu trắng, hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 14Z1 – … được phủ bạt, trên yên xe buộc ba thùng đựng các loại quả gồm có: Thanh long, cam và bòng. Bánh sau của xe môtô bị khóa bằng loại khóa chữ U. Bị cáo liền lấy tuốc- nơ - vít có sẵn trên người phá mở khóa bánh và khóa điện của xe. Khi mở được khóa, bị cáo nổ máy và điều khiển xe chở theo các thùng hoa quả đi về hướng thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Khi đi đến khu vực thôn H, xã H, thị xã Đông Triều Thắng đã vứt ba thùng hoa quả và giá sắt (giá chở hàng) xuống lề đường (Quốc lộ 18) rồi đi tiếp. Trên đường đi, bị cáo tháo biển kiểm soát cho vào cốp xe rồi vứt tuốc - nơ - vít xuống vực. Sau đó, bị cáo vào nhà chị gái ngủ nhờ. Đến khoảng 07 giờ sáng cùng ngày, bị cáo điều khiển chiếc xe đến nhà anh Trương Thạch N, trên đường đi, bị cáo nhặt được một chiếc biển số xe 17- F9 … vứt ở lề đường nên đã lấy và cho vào cốp xe. Tại nhà anh N, bị cáo đã lắp biển số xe 17- F9 … vào xe môtô và ném biển kiểm soát 14Z1 - … lên đỉnh màn nhà anh N. Đến khoảng 15 giờ chiều cùng ngày, bị cáo đến nhà anh Trần Văn H và nhờ dẫn vào nhà anh Trần Sơn L và thỏa thuận cầm cố chiếc xe cho anh L với giá 3.500.000 đồng. Sau đó, bị cáo đã sử dụng hết số tiền nêu trên. Đến ngày 24 tháng 9 năm 2018 thì Lê Xuân T bị Công an thị xã Đông Triều bắt giữ.

Bị hại Đào Thị N có lời khai: Khoảng 5 giờ sáng ngày 18 tháng 9 năm 2018 khi chị ngủ dậy thì phát hiện chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14Z1-… đăng ký tên chồng chị là anh Nguyễn Trọng N… và toàn bộ ba thùng hoa quả trên xe để trước cửa nhà chị đã bị mất. Sau đó, chị liền gọi điện báo cho chồng về làm đơn trình báo Công an. Số hoa quả trên xe của chị gồm có: 120 kg thanh long ruột đỏ loại to đựng trong hai thùng, giá mua vào là 35.000 đồng/ 1kg bằng 4.200.000 đồng; một thùng đựng 30kg cam sành giá trị 750.000 đồng (25.000 đồng/1kg) và 20 quả bòng đào mô lô giá trị 400.000 đồng (20.000 đồng/ quả), tổng cộng giá trị ba thùng hàng là 5.350.000 đồng.

Bị hại Nguyễn Trọng N có lời khai: Khoảng 5 giờ 50 phút ngày 18 tháng 9 năm 2018, anh nhận được điện thoại của vợ là chị Đào Thị N báo về việc gia đình anh bị mất một chiếc xe chở hàng để trước cửa nhà. Xe của anh là loại Yamaha Sirius màu trắng đen, biển kiểm soát 14Z1-… , anh mua năm 2013 với giá 21.000.000 đồng. Vợ anh là người đi xe về để ở trước cửa nhà, khóa điện và khóa chữ U ở bánh trước rồi đậy bạt lên xe vì trên xe có hoa quả để vợ anh đi chợ sớm. Xe của anh có lắp thêm giá chở hàng bằng sắt, đăng ký xe mang tên anh, trong cốp xe không có tài sản nào có giá trị. Khi phát hiện chiếc xe bị mất cùng ba thùng hàng, anh đã sang nhà hàng xóm xem lại camera an ninh thì thấy vào khoảng 2 giờ 40’ ngày 18 tháng 9 năm 2018 có một thanh niên bịt khẩu trang, đội mũ lưỡi chai, đi ủng, mặc quần áo công nhân đã lấy trộm xe của gia đình  anh.Quá trình điều tra, Công an đã xác định người lấy trộm tài sản của gia đình anh là Lê Xuân T. Sau khi sự việc xảy ra, Lê Xuân T đã đến xin lỗi và bồi thường cho gia đình anh số tiền 9.000.000 đồng, đối với chiếc xe bị mất anh cũng đã được nhận lại. Anh N có đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho Lê Xuân T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Sơn L có lời khai: Anh có quen biết Lê Xuân T, ngày 18 tháng 9 năm 2018 T có đến chỗ anh đang làm đồi (thôn L1, xã H) gặp anh hỏi mượn 3.500.000 đồng có việc và để lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha T đang đi cho anh, T bảo mấy hôm nữa sẽ đến trả tiền và lấy xe. Khi anh hỏi về giấy tờ xe thì T nói xe có giấy tờ và do T mới mua. Anh L nhất trí cho T mượn số tiền 3.500.000 đồng. Đến ngày 24 tháng 9 năm 2018 anh được thông báo mang chiếc xe giao nộp cho Công an, khi đó anh mới biết chiếc xe mang biển số 17- F9 …. Anh hoàn toàn không biết chiếc xe do T trộm cắp mà có, đối với số tiền 3.500.000 đồng sau khi sự việc xảy ra, T… đã trả lại cho anh, anh không có yêu cầu gì thêm đối với T...

Người làm chứng chị Lê Thị T có lời khai: Khoảng 4 giờ sáng ngày 18 tháng 9 năm 2018 khi chị đang ngủ tại nhà thì em trai chị là Lê Xuân T gọi điện nói đi làm ca 2 về mưa quá vào nhà chị ngủ nhờ. T đi một mình bằng xe máy (xe mô tô), chị cũng không để ý T đi xe loại gì, biển số thế nào. Đến khoảng 6 giờ 30 phút cùng ngày khi chị và chồng chị đi làm thì T vẫn ngủ. T về nhà lúc nào thì chị không rõ. Mấy ngày hôm sau thì mẹ chị gọi điện nói cho chị về việc T trộm cắp xe bị Công an bắt giữ.

Những người làm chứng khác là: ông Trương Thạch N và anh Trần Văn H đều có lời khai về các tình tiết của vụ án giống với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Lời khai của những người tham gia tố tụng phù hợp với: Biên bản khám nghiệm hiện trường; Sơ đồ hiện trường; Bản ảnh xác định hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh lập và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 18 tháng 9 năm 2018, tại thôn L1, xã H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong quá trình quản lý tài sản, bị cáo Lê Xuân T đã có hành vi chiếm đoạt một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen, biển kiểm soát 14Z1-… cùng số hàng hóa là các loại trái cây gồm 120 kg thanh long ruột đỏ loại to, 30kg cam sành và 20 quả bòng đào mô lô của gia đình anh Nguyễn Trọng N và chị Đào Thị N.

Tại các Bản kết luận định giá tài sản số 54/KL-HĐĐGTS ngày 26 tháng 9 năm 2018 và số 70/ KL-HĐĐGTS ngày 22 tháng 11 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã kết luận: Một chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14Z1 – … nhãn hiệu Yamaha Sirius có giá trị 7.600.000 đ (Bảy triệu sáu trăm nghìn đồng); Hai thùng quả thanh long ruột đỏ loại to khối lượng 120 kg có giá trị 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng); một thùng cam sành miền nam khối lượng 30kg có giá trị 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng); 20 quả bòng đào mô lô có giá trị 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 12.950.000 đ (Mười hai triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Lê Xuân T đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Do đó, Bản cáo trạng số 103/CT-VKS-ĐT ngày 30/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh và lời buộc tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và luận tội tại phiên tòa là có đủ cơ sở, cần được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo Lê Xuân T gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng và tạo dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải bị xử lý thật nghiêm trước pháp luật, như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; một phần tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu, đối với những tài sản và thiệt hại khác, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại tổng số tiền 9.000.000đ (Chín triệu đồng) bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin miễn (giảm nhẹ) trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên cần xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các Điểm b, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Trên cơ sở quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo; Xét nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị của người bị hại thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục, cải tạo để bị cáo có điều kiện chăm lo cho gia đình và trở thành công dân có ích.

Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện nay có các con còn nhỏ, đang tuổi ăn học, điều kiện kinh tế khó khăn nên không cần thiết phải áp dụng Khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự để phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự, vật chứng của vụ án và các vấn đề khác:

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 14Z1 – … và một khóa chữ U quá trình điều tra Công an thị xã Đông Triều đã làm thủ tục trả lại cho người bị hại; về số hàng hóa là hoa quả, trái cây, thùng đựng và giá đèo hàng Công an thị xã Đông Triều đã truy tìm nhưng không thu hồi được, quá trình điều tra bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho gia đình người bị hại tổng số tiền 9.000.000 đồng. Sau khi nhận lại tài sản và tiền bồi thường, những người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.

- Quá trình điều tra, bị cáo đã trả lại người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (anh Trần Sơn L) số tiền 3.500.000 đồng. Đến nay anh L cũng không có đề nghị gì thêm.

- Về chiếc biển số xe mô tô 17 - F9 … bị cáo T đã lắp vào xe sau khi trộm cắp, quá trình điều tra không xác định được nguồn gốc và chủ sở hữu, xét thấy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với hành vi của anh Trần Sơn L đã nhận cầm cố chiếc xe mô tô để cho bị cáo T vay tiền. Quá trình điều tra đã xác định anh L không biết chiếc xe là tài sản do T phạm tội mà có. Liên quan đến việc này, Công an thị xã Đông Triều đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với anh L là phù hợp quy định.

[5] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Lê Xuân T phạm tội “Trộm cắp tài sản".

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; các Điểm b, i, s Khoản 1và Khoản 2 Điều 51; các Khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Xuân T 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lê Xuân T cho Ủy ban nhân dân xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Lê Xuân T có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố tình vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

* Về vật chứng: Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, các Điểm c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy: Một chiếc biển số xe mô tô 17-F9 … (Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng số 16 ngày 30 tháng 11 năm 2018 giữa Công an thị xã Đông Triều và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đông Triều).

* Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Xuân T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;