Bản án 01/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KONTUM, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2018/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo: Đặng Hồ Đức T (tên gọi khác: B), sinh ngày 12 tháng 10 năm 1995 tại Kon Tum; Nơi cư trú: 176/10 Phan Chu T, phường Quyết T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Thợ làm tóc; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng H (đã chết) và bà Hồ Thị S; có vợ và 01 con; tiền án: 0, tiền sự: 0.

Ngày 28/4/2011, bị cáo bị Ủy ban nhân dân thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum ra Quyết định số 634/QĐ-CTUBND về việc đưa người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật vào trường giáo dưỡng, thời gian là 24 tháng. Ngày 23/3/2013, bị cáo đã chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Kon Tum từ ngày 17/9/2018 đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Đặng Tuấn Q, sinh năm 1996. (Vắng mặt; Có đơn đề nghị xét xử

vắng mặt). Địa chỉ: Số 101 Đoàn Thị Đ, phường Quyết T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum.

2/ Chị Tạ Thị Phúc D, sinh năm 1986. (Vắng mặt; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt). Địa chỉ: Số 432 Phan Đình P, phường Quang T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum.

3/ Anh Nguyễn Hữu P, sinh năm 1969. (Vắng mặt; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt). Địa chỉ: Số 281 Phan Chu T, phường Quyết T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum.

4/ Bà Hán Thị Kiều T, sinh năm 1950. (Vắng mặt; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt). Địa chỉ: Số 562 Duy T, phường Duy T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum.

- Người làm chứng:

1/ Anh Vũ Duy Đ, sinh năm 1983. (Vắng mặt). Địa chỉ: Tổ 1, phường Nguyễn T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum.

2/ Chị Y H, sinh năm 1994. (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn 9, xã Đắk Rơ V, huyện Kon R, tỉnh Kon Tum.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cáo trạng số 01/CT-VKSTPKT ngày 10/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum thể hiện:

Vào khoảng 13 giờ ngày 16/9/2018, bị cáo Đặng Hồ Đức T gọi điện thoại cho L (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy với giá 600.000 đồng. L đồng ý và hẹn bị cáo đến khu vực đường Trường C – Lê Hồng P, thành phố Kon T để lấy ma túy. Bị cáo đi xe taxi (chưa rõ hãng xe, biển số xe và người điều khiển) đến điểm hẹn gặp L. Tại đây, bị cáo đưa cho L 600.000 đồng và nhận 03 gói ma túy đá, đựng trong bì ni lông dán kín từ L rồi bỏ đi. Bị cáo cất số ma túy này vào ví da, để trong túi quần và thuê xe taxi (chưa rõ hãng xe, biển số xe và người điều khiển) đến điểm dừng xe ô tô bus và đi xe ô tô bus (chưa rõ biển số và người điều khiển xe) đến huyện Kon R, tỉnh Kon Tum để chơi với bạn gái là chị Y H. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, bị cáo rủ chị H về thành phố Kon T chơi. Chị H đồng ý. Sau đó, bị cáo và chị H đi xe ô tô bus về thành phố Kon T. Đến nơi, bị cáo và chị H đi ăn, uống cà phê trước Bến xe ô tô tỉnh Kon T.

Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo nhắn tin qua mạng Facebook cho anh Đặng Tuấn Q để nhờ chở về nhà bị cáo. Anh Q đồng ý. Khoảng 20 phút sau, anh Q điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 82K3-0144 đến Bến xe chở bị cáo và chị H. Khi đang đi trên đường Phan Đình P – Huỳnh Thúc K, thành phố Kon T thì xe mô tô chở bị cáo bị cơ quan Công an thành phố Kon T phối hợp với Cảnh sát 113 Công an tỉnh Kon T yêu cầu dừng xe, kiểm tra hành chính. Tại đây, cơ quan Công an đã phát hiện trong ví da cất trong người bị cáo có 03 gói chất tinh thể rắn màu trắng, đựng trong bì ni lông dán kín. Cơ quan Công an đã lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong tang vật.

Tại Kết luận giám định số 99/GĐTP–2018 ngày 18/9/2018 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Kon Tum thể hiện: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng được niêm phong trong phong bì gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3588 gam (Không phẩy, ba năm tám tám gam), loại Methamphetamine. 

Cáo trạng số 01/CT-VKSTPKT ngày 10/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum truy tố bị cáo Đặng Hồ Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Đặng Hồ Đức T (tên gọi khác: B) như Cáo trạng và đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đặng Hồ Đức T từ 12 đến 18 tháng tù. Bên cạnh đó, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 16/9/2018, Công an thành phố Kon T phối hợp với Cảnh sát 113 Công an tỉnh Kon T tiến hành kiểm tra hành chính đối với xe mô tô biển kiểm soát 82K3-0144 do anh Đặng Tuấn Q điều khiển, chở sau là bị cáo Đặng Hồ Đức T và chị Y H đang lưu thông trên đoạn đường Phan Đình P – Huỳnh Thúc K, thành phố Kon T. Tại đây, cơ quan Công an đã phát hiện bị cáo T có cất giấu trong 01 ví da màu nâu 03 gói ma túy, có khối lượng 0,3588 gam, loại Methamphetamine. Bị cáo khai nhận, số ma túy này có nguồn gốc là do bị cáo mua từ L (không rõ nhân thân, lai lịch) với giá 600.000 đồng để sử dụng.

[2] Như vậy, hành vi của bị cáo Đặng Hồ Đức T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, Cáo trạng số 01/CT-VKSTPKT ngày 10/12/2018 của bị cáo Đặng Hồ Đức T là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cố ý xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Kon T. Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử nhằm tuyên truyền pháp luật và răn đe, phòng ngừa chung đối với tình hình tội phạm hiện nay là cần thiết.

[4] Thấy rằng, sau khi phạm tội, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần được áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Xét về nhân thân bị cáo, nhận thấy: Bị cáo Đặng Hồ Đức T từng bị Ủy ban nhân dân thành phố Kon T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần. Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội mới, bị cáo được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

[6] Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo Đặng Hồ Đức T đã từng có thời gian học tập tại trường giáo dưỡng. Tuy nhiên, bị cáo không nhận thức được lỗi lầm của bản thân để phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, trở thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục dấn thân vào tệ nạn ma túy. Do đó, cần phải có thời gian và mức án nghiêm khắc mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo.

[7] Từ những phân tích trên, thấy rằng, cần thiết phải cách ly bị cáo Đặng Hồ Đức T với đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, biết tôn trọng quy định của pháp luật.

[8] Đối với đối tượng “L” là người bán ma túy cho bị cáo Đặng Hồ Đức T. Tuy nhiên, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Kon Tum sẽ tiếp tục điều tra, có cơ sở sẽ xử lý sau.

[9] Đối với anh Đặng Tuấn Q và chị Y H là những người đi cùng với bị cáo Đặng Hồ Đức T. Tuy nhiên, anh Q và chị H không biết việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Kon Tum không đưa ra hình thức xử lý là phù hợp với quy định pháp luật.

[10] Về vật chứng:

+ Đối với 0,2928 gam ma túy, loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định), bao gói mẫu vật trong phong bì số 99/GĐTP-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kon T là chất cấm lưu hành. Do đó, cần tịch thu và tiêu hủy.

+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Honor, màu đen vàng, bị vỡ màn hình góc trên bên trái, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo Đặng Hồ Đức T. Bị cáo đã sử dụng chiếc điện thoại di động này liên lạc với đối tượng Lít (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy. Do đó, cần tịch thu và sung quỹ Nhà nước.

+ Đối với 01 quẹt ga màu tím, đã qua sử dụng, không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy.

+ Đối với 01 ví da màu nâu, đã qua sử dụng, bị cáo sử dụng để cất giấu ma túy. Do đó, cần tịch thu và tiêu hủy.

+ Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 82K3-0144, số khung VFCPCH0A2YF009026, số máy 1P50FMH*10018315*, nhãn hiệu MINGXING, màu xanh, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong là tài sản thuộc sở hữu của chị Tạ Thị Phúc D (đã mua lại từ các chủ sở hữu trước đó). Anh Đặng Tuấn Q đã sử dụng chiếc xe này để chở bị cáo Đặng Hồ Đức T và chị Y H. Tuy nhiên, chị D và anh Q không biết việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Kon T đã trả lại cho chị D là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Đối với số tiền 300.000 đồng thu giữ trên người bị cáo Đặng Hồ Đức T là tài sản thuộc sở hữu của chị Y H (bị cáo mượn của chị H). Chị H yêu cầu bị cáo trả lại số tiền này. Do đó, Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Kon T đã trả lại cho chị H là phù hợp với quy định của pháp luật.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Tuyên bố bị cáo Đặng Hồ Đức T (tên gọi khác: B) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đặng Hồ Đức T 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam, ngày 17/9/2018.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu và tiêu hủy đối với: 0,2928 gam ma túy, loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định), bao gói mẫu vật trong phong bì số 99/GĐTP-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kon T; 01 quẹt ga màu tím và 01 ví da màu nâu, tất cả đều đã qua sử dụng.

- Tịch thu và nộp vào ngân sách Nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Honor, màu đen vàng, bị vỡ màn hình góc trên bên trái, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong. (Tất cả như Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/12/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Kon T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Kon T).

Về án phí: Căn cứ các Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các Điều 6, 21 và 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đặng Hồ Đức T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (08/01/2019), bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm. Riêng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;