Bản án 01/2019/HS-ST ngày 02/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 01/2019/HS-ST NGÀY 02/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02/01/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa,tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 97/2019/TLST-HS ngày 17/12/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2019/QĐXXST-HS ngày 19/12/2019, đối với bị cáo: Họ và tên: Đặng Văn N - sinh năm 1982 Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn Đông, xã Đoan Bái, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 7/12 Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Con ông: Đặng Văn Quang, sinh năm 1947. Con bà: Đặng Thị Xuân, sinh năm 1945.

Vợ: Nguyễn Thị Biên, sinh năm 1986 (đã ly hôn) Bị can có 02 con, lớn nhất sinh năm 2004 nhỏ sinh năm 2006. Gia đình có 5 chị em, bị can là con thứ 5.

Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 06/6/2013, Đặng Văn N bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 15/6/2013, Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can đối với Ngọc về tội “Cố ý gây thương tích” (Lý do, bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố). Ngày 15/6/2013, Trưởng Công an huyện Hiệp Hòa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 61/QĐ-XPHC (Phạt tiền 1.500.000 đồng) về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác”.

Bị can bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/9/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang.

Người liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn Hiếu, sinh năm 1994 (vắng mặt).

TQ: thôn Tam Đồng, xã Đoan Bái, Hiệp Hòa, Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 00 phút ngày 01/9/2019, tại khu 4, thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Tổ tuần tra Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Hiệp Hòa bắt quả tang Đặng Văn N - sinh năm 1982 ở thôn Đông, xã Đoan Bái, huyện Hiệp Hòa đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ tại túi quần sau bên trái quần Ngọc đang mặc 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa đường viền màu đỏ, bên trong có 02 viên nén màu hồng đỏ trên mỗi mặt của mỗi viên có chữ “WY” và chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp. Cùng ngày, Tổ tuần tra Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Hiệp Hòa đã bàn giao đối tượng cùng vật chứng trên cho Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Hiệp Hòa lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đồng thời niêm phong số ma túy thu giữ của Ngọc trong phong bì ký hiệu “QT”. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của Ngọc 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đỏ, 1.500.000 đồng, 01 túi ni lon đựng ống hút nhựa nhiều màu, 01 hộp giấy đựng giấy bạc (BL: 20-21).

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Đặng Văn N nhưng không thu giữ gì (BL:27- 28).

Ngày 02/9/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa ra Quyết định trưng cầu giám định Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang giám định số vật chứng thu giữ nghi là ma túy khi bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số 1396/KL-PC54 ngày 03/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận:

“Trong phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định :Tinh thể màu trắng và 02 (hai) viên nén màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng: 0,532 gam (trong đó: khối lượng tinh thể màu trắng 0,341 gam; khối lượng 02 (hai) viên nén màu hồng đỏ 0,191 gam) (BL:37).

Quá trình điều tra xác định hành vi phạm tội và nguồn gốc số ma túy của bị can như sau:

Khong 16 giờ 30 phút ngày 01/9/2019, Đặng Văn N đi đến khu vực Công ty may VietPan thuộc thôn Danh Thượng, xã Danh Thắng, huyện Hiệp Hòa thì gặp Nguyễn Văn Hiếu-sinh năm 1994 ở thôn Tam Đồng, xã Đoan Bái, huyện Hiệp Hòa, do trước đó Hiếu và Ngọc có quen biết nhau và cùng là đối tượng nghiện ma túy nên Hiếu nói với Ngọc “anh có gì không cho em theo với” (ý nói có ma túy không để cùng sử dụng). Ngọc đồng ý và bảo Hiếu đứng chờ để Ngọc đi trả xe, sau đó Ngọc quay lại và điều khiển xe mô tô của Hiếu chở Hiếu lên khu vực dốc Trại cờ thuộc thôn Đức Nghiêm, xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hòa để mua ma túy. Đến đây, Ngọc nói với Hiếu đứng ở ngoài chờ, còn Ngọc đi bộ một mình, theo Ngọc khai Ngọc đến nhà người có tên là Đức ở thôn Hưng Thịnh, xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa (giáp với xã Ngọc Sơn) mua 400.000 đồng ma túy gồm 02 viên hồng phiến và ma túy đá, sau khi mua được ma túy, Ngọc cất giấu trong túi quần sau bên trái đang mặc đi ra nơi Hiếu đang đợi. Khi gặp Hiếu, Ngọc nói với Hiếu là “mua được rồi anh em mình về đâu để chơi”. Sau đó, Ngọc ngồi lên xe máy Hiếu chở Ngọc đi theo Quốc lộ 37 để về nhà, khi đi đến ngã tư biển thuộc khu 5 thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa Ngọc vào một cửa hàng tạp hóa mua ống nhựa và giấy bạc để sử dụng ma túy. Khi Hiếu chở Ngọc đến khu vực Ban chỉ huy quân sự huyện Hiệp Hòa thuộc khu 4 thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa thì bị Tổ tuần tra kiểm soát giao thông Công an huyện Hiệp Hòa kiểm tra, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (BL: 77-94).

Cơ quan điều tra lấy lời khai của đối tượng Đỗ Quang Đức, sinh năm 1983 ở thôn Đức Nghiêm, xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hòa (theo Ngọc khai Đức bán ma túy cho Ngọc). Tuy nhiên, Đức không thừa nhận việc bán ma túy cho Ngọc. Cơ quan điều tra đã cho Ngọc và Đức đối chất, hai bên vẫn giữ nguyên lời khai của mình. Do vậy, không có căn cứ để xử lý đối với Đức về hành vi bán ma túy cho Ngọc (BL:65- 66).

Đối với Nguyễn Văn Hiếu, do bản thân Hiếu và Ngọc đều là những đối tượng nghiện ma túy, mặc dù Hiếu cùng Ngọc đi đến khu vực Trại cờ thuộc thôn Đức Nghiêm, xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hòa để mua ma túy. Tuy nhiên, Ngọc là người trực tiếp vào mua còn Hiếu đứng ở ngoài, Hiếu không biết Ngọc mua bao nhiêu tiền, số lượng ma túy ra sao. Do vậy, không có đủ căn cứ để xử lý Hiếu đồng phạm với Đặng Văn N về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về vật chứng: Số ống hút nhựa và giấy bạc là dụng cụ Ngọc mua để sử dụng ma túy, chiếc điện thoại di động Nokia màu đỏ và số tiền 1.500.000 đồng thu giữ của Ngọc khi bắt quả tang là của Đặng Văn N không sử dụng vào việc phạm tội. Hiện nay, Cơ quan điều tra đang tạm giữ.

Cáo trạng số 86/CT-VKS-HH ngày 04/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo Nguyễn Văn Hưng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, sau phần xét hỏi tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo, phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

1, Tuyên bố bị cáo Đặng Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2, Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Đặng Văn N từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 01/9/2019.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3,Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy “Trong phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định :Tinh thể màu trắng và 02 (hai) viên nén màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng: 0,532 gam (trong đó: khối lượng tinh thể màu trắng 0,341 gam; khối lượng 02 (hai) viên nén màu hồng đỏ 0,191 gam) - Số ống hút nhựa và giấy bạc là dụng cụ Ngọc mua để sử dụng ma túy, chiếc điện thoại di động Nokia màu đỏ và số tiền 1.500.000 đồng thu giữ của Ngọc khi bắt quả tang là của Đặng Văn N không sử dụng vào việc phạm tội.

- 4, Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội và không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo Nguyễn Văn Hưng nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Hiệp Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người làm chứng.... không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về sự vắng mặt của người liên quan là anh Nguyễn Văn Hiếu đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do, tuy nhiên đã có đầy đủ lời khai của họ trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người liên quan theo khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[3]: Về tội danh:

Ngày 01/9/2019, tại Khu 4, thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Đặng Văn N - sinh năm 1982 ở thôn Đông, xã Đoan Bái, huyện Hiệp Hòa đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,532 gam ma túy Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị Tổ tuần tra Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Hiệp Hòa phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp về thời gian, không gian, địa điểm. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ cho đời sống cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, là nguy cơ lây truyền các căn bệnh xã hội như HIV, AIDS… Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển…trái phép chất ma tuý. Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm loại trừ tệ nạn này.

Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền tới chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do đó cần phải có hình phạt tương xứng với hành vi phạm. Việc sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của bản thân bị cáo mà còn gây tổn thất về kinh tế cho gia đình, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội nên cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

4]. Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Tiền sự: Ngày 06/6/2013, Đặng Văn N bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 15/6/2013, Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can đối với Ngọc về tội “Cố ý gây thương tích” (Lý do, bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố). Ngày 15/6/2013, Trưởng Công an huyện Hiệp Hòa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 61/QĐ-XPHC (Phạt tiền 1.500.000 đồng) về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác”.

[5]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo một phần khi lượng hình.

[6]. Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự .

[7]. Xét về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[8]. Cơ quan điều tra lấy lời khai của của đối tượng Đỗ Quang Đức sinh năm 1983 ỏ thôn Đức Nghiêm, Ngọc Sơn, Hiệp Hòa (theo Ngọc khai là Đức bán ma túy cho Ngọc). Tuy nhiên Đức không thừa nhận việc bán ma túy cho Ngọc. Cơ quan điều tra đã cho Ngọc và Đức đối chất hai bên vẫn giữ nguyên lời khai của mình. Do vậy không có căn cứ để xử lý với Đức về hành vi bán ma túy cho Ngọc.

[9]. Về vật chứng của vụ án gồm:

- Tịch thu tiêu hủy “Trong phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định :Tinh thể màu trắng và 02 (hai) viên nén màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng: 0,532 gam (trong đó: khối lượng tinh thể màu trắng 0,341 gam; khối lượng 02 (hai) viên nén màu hồng đỏ 0,191 gam) - Số ống hút nhựa và giấy bạc là dụng cụ Ngọc mua để sử dụng ma túy, chiếc điện thoại di động Nokia màu đỏ và số tiền 1.500.000 đồng thu giữ của Ngọc khi bắt quả tang là của Đặng Văn N không sử dụng vào việc phạm tội.

[10]. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[11]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự;

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt: Đặng Văn N 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 01/9/2019.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu huỷ:

- Tịch thu tiêu hủy “Trong phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định :Tinh thể màu trắng và 02 (hai) viên nén màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng: 0,532 gam (trong đó: khối lượng tinh thể màu trắng 0,341 gam; khối lượng 02 (hai) viên nén màu hồng đỏ 0,191 gam) - Số ống hút nhựa và giấy bạc là dụng cụ Ngọc mua để sử dụng ma túy, chiếc điện thoại di động Nokia màu đỏ và số tiền 1.500.000 đồng thu giữ của Ngọc khi bắt quả tang là của Đặng Văn N không sử dụng vào việc phạm tội.

Áp dụng điểm b khoản 2, 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Hưng 01 chiếc điện thoại di động màu đen, mặt trước có chữ NOKIA nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 50. 000 đồng.

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụn g án phí lệ phí Tòa án: Bị cáo Đặng Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

321
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2019/HS-ST ngày 02/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;