Bản án 01/2019/DS-ST ngày 11/01/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 01/2019/DS-ST NGÀY 11/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Mở phiên tòa ngày 11 tháng 01 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Krông Nô tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 50/2018/TLST-DS, ngày 07/8/2018, về việc “Kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2018/QĐXXST-DS, ngày 20/11/2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2018/QĐST-DS, ngày 06/12/2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2018/QĐST-DS, ngày 25/12/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam

Địa chỉ: Số 169, phố Linh Đường, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Tp. Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: ông Dương Quyết T1, c/v: Tổng giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: ông Phạm Xuân T2 , c/v: Giám đốc Ngân hàng chính sách xã hội phòng giao dịch huyện Krông Nô. Có mặt.

Bị đơn: Ông Đinh Văn T3. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị L (Vợ ông Đinh Văn T3). Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: thôn S, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo  đơn  khởi  kiện đề ngày 25/7/2018 (nộp  trực  tiếp  tại Tòa án ngày 03/8/2018), quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn – ông Phạm Xuân T2  trình bày:

Ngày 29/4/2014 NHCSXH Việt Nam - PGD Krông Nô ký kết hợp đồng tín dụng số 600000701240464 (Số cũ 6406030869) với ông Đinh Văn T3, theo đó Ngân hàng cho ông T3 (Người thừa kế quyền, nghĩa vụ là bà Nguyễn Thị L) vay số tiền gốc là 20.000.000 đồng, theo chương trình cho vay giải quyết việc làm; thời hạn vay 36 tháng, kỳ hạn trả nợ 06 tháng/ lần với số tiền là 3.300.000 đồng/ năm, lãi suất là 0,65%/ tháng, thời hạn trả nợ cuối cùng: Ngày 23/4/2017.

Trong quá trình vay hộ ông Đinh Văn T3 chỉ thanh toán được số tiền lãi trong hạn là 630.000 đồng và không thanh toán được khoản tiền gốc nào. Do ông T3 không thanh toán được, Ngân hàng đã nhiều lần cho ông T3 gia hạn thời hạn trả nợ, thời hạn trả nợ cuối cùng là 06/04/2018, tuy nhiên ông T3cũng không thanh toán được số tiền gốc vì vậy ngày 07/04/2018 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số tiền nợ gốc là 20.000.000 đồng sang nợ quá hạn, tính mức lãi suất quá hạn là 0,845%/tháng.

Tại phiên tòa, NHCSXH Việt Nam yêu cầu Tòa án buộc ông Đinh Văn T3 và bà Nguyễn Thị L phải có nghĩa vụ liên đới để thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền 25.606.000 đồng, cụ thể:

Số tiền nợ gốc là: 20.000.000 đồng;

Số tiền lãi trong hạn từ ngày 29/4/2014 đến ngày 06/4/2018: 20.000.000 đồng x 0,65%/tháng x 1439 ngày = 6.236.000 đồng. Số tiền lãi trong hạn chưa thanh toán là: 6.235.666 đồng – 630.000 đồng = 5.606.000 đồng; Ngân hàng rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với ông Đinh Văn T3, bà Nguyễn Thị L về yêu cầu tính tiền lãi quá hạn.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Đinh Văn T3 và bà Nguyễn Thị L, tuy nhiên ông T3, bà L vắng mặt tại địa phương, tại phiên tòa ông bà vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa; tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng, đầy đủ các trình tự thủ tục quy định; Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật; Bị đơn; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vi phạm quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70; 72; 73 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính lãi quá hạn của Nguyên đơn.

Về án phí: Buộc ông Đinh Văn T3 và bà Nguyễn Thị L nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả thẩm tra công khai các tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam là quan hệ tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 3 Điều 26, Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS).

[ 1.2] Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Đinh Văn T3. Tại Biên bản xác minh của Công an xã  Đ thể hiện, ông Đinh Văn T3 là chủ hộ, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn S, xã  Đ, huyện K, thành viên hộ gia đình có bà Nguyễn Thị L (Vợ ông T3) và các con. Tuy nhiên ông T3, bà L thường xuyên vắng mặt tại địa phương, ông bà không thay đổi nơi cư trú, không thông báo tạm vắng tại địa phương, không thông báo địa chỉ nơi cư trú mới cho Ngân hàng, vì vậy chính quyền địa phương cũng như Ngân hàng không xác định được nơi sinh sống và làm việc hiện nay của ông T3, bà L

Khoản 2 Điều 5 và điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số: 04/2017/NQ-HĐTP, ngày 05/5/2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:

Khoản 2 Điều 5: “Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1

Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.”

Điều 6: “2. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tổng đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như sau:

a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;”

Theo tài liệu chứng cứ mà Nguyên đơn cung cấp thể hiện, người trực tiếp vay tiền và ký kết hợp đồng tín dụng là ông Đinh Văn T3, tuy nhiên trong sổ vay vốn thể hiện người thừa kế là bà Nguyễn Thị L - vợ ông T3. Ngân hàng cho ông Đinh Văn T3 vay tiền theo chương trình cho vay giải quyết việc làm cho hộ gia đình, vì vậy bà Nguyễn Thị L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với ông Đinh Văn T3 và có trách nhiệm liên đới cùng ông Đinh Văn T3 thanh toán nợ cho Ngân hàng.

Từ các phân tích và dẫn chiếu quy định của pháp luật trên thì xác định được ông T3, bà L là người có nghĩa vụ đối với Ngân hàng, nhưng ông bà không thực hiện nghĩa vụ theo đúng nội dung thỏa thuận của hai bên, ông bà thường xuyên vắng mặt tại địa phương, không thông báo tạm vắng cho chính quyền địa phương, cũng không thông báo địa chỉ mới cho Ngân hàng, vì vậy ông T3 và bà L cố tình giấu địa chỉ. Tòa án nhân dân huyện Krông Nô thụ lý, giải quyết theo đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa ông Đinh Văn T3 và bà Nguyễn Thị L vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung Hợp đồng tín dụng:

Căn cứ vào Hợp đồng tín dụng số 600000701240464(Số cũ 6406030869) ngày 29/4/2014 (Hợp đồng thể hiện tại Sổ vay vốn và Đơn tham gia dự án vay vốn giải quyết việc làm), đã xác định được  NHCSXH Việt Nam- PGD Krông Nô đã ký kết hợp đồng tín dụng với ông Đinh Văn T3. Hai bên thỏa thuận số tiền vay là 20.000.000 đồng theo chương trình cho vay giải quyết việc làm để trồng và chăm sóc cây cà phê, thời hạn vay 36 tháng, kỳ hạn trả nợ 06 tháng/ lần với số tiền là 3.300.000 đồng/ năm, lãi suất là 0,65%/ tháng, thời hạn trả nợ cuối cùng ngày 06/4/2018.

Trong quá trình vay ông Đinh Văn T3 chỉ thanh toán được số tiền lãi trong hạn là 630.000 đồng (thời điểm trả tiền lãi cuối cùng là ngày 06/12/2014) và không thanh toán được khoản tiền gốc nào. 

Tính đến ngày xét xử, ngày 25/12/2018,  bà  ông  Đinh  Văn  T3  còn  nợ  của  Ngân  hàng  tổng  số  tiền 25.606.000 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 20.000.000 đồng, lãi trong hạn là 5.606.000 đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng tín dụng thể hiện dưới hình thức văn bản, thể hiện sự tự nguyện, tự thỏa thuận giữa bên cho vay là NHCSXH Việt Nam –PGD Krông Nô và bên vay là ông Đinh Văn T3. Hợp đồng tín dụng đã thể hiện rõ về mức cho vay, phương thức cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, trả nợ gốc và lãi vốn vay, quyền và nghĩa vụ của bên cho vay; bên vay… đúng theo quy đinh tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 10; Điều 11; Điều 12; Điều 13; Điều 16; Điều 17; Điều 24; Điều 25 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước).

[3] Về yêu cầu thanh toán nợ gốc, tiền lãi trong hạn:

[3.1]  Theo Hợp đồng tín dụng số 600000701240464(Số cũ 6406030869) ngày 29/4/2014 (Hợp đồng thể hiện tại Sổ vay vốn và Đơn tham gia dự án vay vốn giải quyết việc làm), thì ông T3 vay số tiền là 20.000.000 đồng với thời hạn vay là 36 tháng, thời điểm trả nợ cuối cùng là ngày 06/4/2018 (Đã được gia hạn). Số tiền nợ gốc là 20.000.000 đồng.

[3.2]Tại  Đơn  tham  gia  dự  án  vay  vốn  giải  quyết  việc  làm  đề  ngày 28/4/2014, khoản 3 mục C của Phiếu thẩm định dự án và  mục II của Sổ lưu tờ rời theo dõi cho vay- thu nợ - dư nợ thể hiện lãi suất cho vay là 0,65%/tháng.

Trong quá trình vay ông T3 chỉ thanh toán được số tiền lãi trong hạn là 630.000 đồng vào thời điểm cuối cùng là ngày 06/12/2014. Số tiền lãi trong hạn từ ngày 29/4/2014 đến ngày 06/4/2018: 20.000.000 đồng x 0,65%/tháng x 1439 ngày = 6.236.000 đồng. Số tiền lãi trong hạn chưa thanh toán là: 6.236.000 đồng – 630.000 đồng = 5.606.000 đồng;

Vì vậy yêu cầu của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam đối với số tiền nợ gốc, tiền lãi trong hạn là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[4] Trong đơn khởi kiện đề ngày 25/7/2018, Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam yêu cầu tính tiền lãi quá hạn đối với ông Đinh Văn T3 và bà Nguyễn Thị L. Tại phiên tòa Ngân hàng rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu tính tiền lãi quá hạn. Xét thấy việc rút yêu cầu nói trên là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Ngân hàng về tính tiền lãi quá hạn.

[5] Án phí dân sự: Yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn được chấp nhận vì vậy ông Đinh Văn T3 và bà Nguyễn Thị L phải nộp số tiền 1.280.000 đồng (25.606.000 đồng x 5% = 1.280.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ  khoản 3 Điều 26; Điều 35; Điều 235; khoản 2 Điều 244; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Luật các tổ chức tín dụng; Điều 26 NQ 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam.

Buộc ông Đinh Văn T3  và bà Nguyễn Thị L phải thanh toán cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam tổng số tiền 25.606.000 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 20.000.000 đồng; Số tiền lãi trong hạn chưa thanh toán là 5.606.000 đồng;

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án), ông Đinh Văn T3 và bà Nguyễn Thị L còn phải chịu khoản tiền lãi chậm trả của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận theo Hợp đồng tín dụng số 600000701240464(Số cũ 6406030869) ngày 29/4/2014 (Hợp đồng thể hiện tại Sổ vay vốn và Đơn tham gia dự án vay vốn giải quyết việc làm) cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam đối với ông Đinh Văn T3 và bà Nguyễn Thị L về tính tiền lãi quá hạn.

[2] Án phí: Buộc ông Đinh Văn T3 và bà Nguyễn Thị L phải nộp 1.280.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[5]Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thu hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

821
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2019/DS-ST ngày 11/01/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:01/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;