TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA CHẼ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 01/2018/HSST NGÀY 24/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Chẽ mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 01/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 04 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn T, tên gọi khác: Không.
Sinh ngày: 26 tháng 11 năm 1990. Nơi sinh: xã M, huyện B, tỉnh Quảng Ninh
Nơi cư trú: Thôn Đ, xã M, huyện B, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Làm ruộng.Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không;
Quốc tịch: Việt nam.
Bố đẻ: Chưa xác định được; con bà: Đinh Thị T sinh năm 1963; Bị cáo là con duy nhất.
Vợ, con: Chưa có.
Tiền án, tiền sự: Không có.
Nhân thân: Ngày 8/6/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Chấp hành xong hình phạt tù về địa phương ngày 15/10/2011.
Ngày 15/03/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương ngày 15/04/2014.
Bị cáo đầu thú ngày 01/03/2018, bị tạm giữ đến ngày 7/03/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Bà Chu Thị C sinh ngày 17/5/1982 địa chỉ: Thôn Đ, xã M, huyện B, tỉnh Quảng Ninh có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
Chu Văn K; sinh ngày 7/10/2001; địa chỉ: Thân Đ, xã M, huyện B, tỉnh Quảng Ninh.
Ngô Thị N, sinh năm 1969, địa chỉ: Khu 1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Ninh.
Phạm Anh T, sinh ngày: 20/03/1988, địa chỉ khu 2 thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Ninh.Đinh Thị T, sinh ngày 31/8/1963, địa chỉ: thôn Đ, xã M, huyện B, tỉnh Quảng Ninh. Tất cả các người làm chứng trên đều vắng mặt tại phiên tòa.\
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 8 giờ ngày 24/02/2018, Nguyễn Văn T đi bộ từ nhà mình ở thôn Đ, xã M, huyện B đến khu vực nhà chị Chu Thị C (nhà cùng thôn) thấy nhà chị C đóng cửa nên đoán biết không có ai ở nhà, T đi đến gần thấy cửa chính có treo ổ khóa nhưng không khóa; T liền mở cửa đi vào phòng khách, rồi tiếp tục đi vào phòng ngủ của vợ chồng chị C để tìm tài sản; T đi đến giường ngủ lật đệm giường lên thì thấy một tệp tiền buộc bằng dây thun; T cầm tệp tiền đút vào túi áo khoác ngoài rồi đi về nhà đếm được 17.000.000đ (mười bẩy triệu đồng), gồm 34 tờ mệnh giá 500.000đ, sau đó đem cất xuống dưới đệm giường ngủ của mình. Toàn bộ số tiền trộm cắp T khai cầm sang huyện S, tỉnh Bắc Giang mua 01 điện thoại Iphone hết 800.000đ, tham gia đánh bạc và thua hết khoảng: 12.000.000đ, ăn tiêu cá nhân hết khoảng: 1.000.000đ; khi về đến nhà T đếm lại tiền thấy còn 3.650.000đ nên cất500.000đ (05 tờ mệnh giá 100.000đ) dưới giường ngủ của mình; số tiền còn lại T mua 01 tai nghe điện thoại hết 150.000đ; cho bạn là anh Chu Văn K vay 1.500.000đ để mua điện thoại, ăn sáng hết 100.000đ. Ngày 01/03/2018 T đến công an huyện Ba Chẽ đầu thú và tự nguyện giao nộp 1.400.000đ; 01 điện thoại Iphone, 01 tai nghe, Cơ quan điều tra thu giữ 500.000đ do Thiêm cất dấu dưới giường; anh Chu Văn K tự nguyện nộp lại : 1.500.000đ.
Quá trình điều tra Nguyễn Văn T đã bồi hoàn toàn bộ số tiền trộm cắp 17.000.000đ cho chị Chu Thị C.
Tại phiên tòa Bị cáo hoàn toàn nhận tội trộm cắp tài sản như trên.
Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKSBC ngày 17 tháng 4 năm 2018; Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Chẽ truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Chẽ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 điều 51 bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 9 – 12 tháng tù
Về trách nhiệm dân sự áp dụng điều điểm b khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu xung ngân sách nhà nước 01 điện thoại và 01 tay nghe.
Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự trả cho Nguyễn Văn T 1.900.000đ và Chu Văn K 1.500.000đ.
Miễn hình phạt bổ xung cho Bị cáo Nguyễn Văn T.
Ý kiến của bị hại: Bị hại đã nhận lại toàn bộ số tiền bị mất trộm 17.000.000đ không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là sai trái, bị cáo mong hội đồng xét xử với mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội về lo cho gia đình và xin được nhận lại toàn bộ số tài sản mà cơ quan điều tra đã thu giữ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi; Quyết định Tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên; Cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T là đúng theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự;
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hay tố cáo nào về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện là hợp pháp.
Về hành vi phạm tội: Bị cáo Nguyễn văn T khai nhận tại phiên tòa, vào ngày 24/02/2018 bị cáo đã lén lút vào nhà chị Chu Thị C ở cùng thôn Đ, xã M, huyện B chiếm đoạt số tiền 17.000.000đ (Mười bẩy triệu đồng) của chị Chu Thị C để ở dưới đệm giường; lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Như vậy Cáo trạng số không 01/CT-VKSBC ngày 17/04/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân và gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho người dân cũng như gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Ngoài ra, bản thân Nguyễn Văn T đã 02 lần bị kết án tù về tội Trộm cắp tài sản nhưng bị cáo T đã không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do đó cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại đồng thời sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan điều tra đầu thú và người bị hại đã có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do đó cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 điều 51 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Chị Chu Thị C đã nhận lại toàn bộ số tiền bị trộm cắp 17.000.000đ do Nguyễn Văn T hoàn trả nên không có yêu cầu gì thêm.
Về hình phạt bổ sung: do bị cáo làm ruộng thu nhập thấp không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng.
Về vật chứng, cơ quan công an thu giữ của Nguyễn Văn T số tiền: 1.900.000đ 01 điện thoại Iphone; 01 tai nghe đây không phải là công cụ, phương tiện phạm tội hay tài sản phi pháp bởi Nguyễn Văn T đã bồi thường xong cho bị hại toàn bộ số tài sản trộm cắp là 17.000.000đ nên đây là tài sản của Nguyễn Văn T do đó cần tuyên trả cho bị cáo. Chu Văn K nộp tại Cơ quan điều tra 1.500.000đ tiền vay của Nguyễn Văn T nhưng không biết là tiền T trộm cắp; nay T đã bồi thường xong cho bị hại nên số tiền này được trả lại cho Chu Văn K.
Đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn Văn T khai sử dụng tiền trộm cắp tham gia đánh bạc bằng hình thức sóc đĩa với một số đối tượng không quen biết tại huyện S, tỉnh Bắc Giang, T không nhớ rõ, không xác định được địa điểm cụ thể; không thuộc thẩm quyền điều tra nên cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Ba Chẽ đã tách ra, đồng thời thông tin, phối hợp với cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện S, tỉnh Bắc Giang điều tra, làm rõ, xử lý sau.
Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo Nguyễn Văn T và bị hại Chu Thị C có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 điều 173; các điểm b, s khoản 1 điều 51 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự
Xử phạt: Nguyên Văn T 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án; được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 01/03/2018 đến ngày 7/03/2018. Miễn hình phạt bổ sung dối với bị cáo Nguyễn Văn T.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự, điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Trả cho Nguyễn Văn T: 01 (một) điện thoại di động dán mác Iphones, mầu trắng, iMel: 013555008370254; 01 (một) tai nghe (tai phon) nghe nhạc hai loa tròn chóp cụt mầu vàng có chữ SONY trên mặt chóp cụt; 1.900.000đ (Một triệu chín trăm nghìn đồng); trả cho Chu Văn K 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26 tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh.
Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ điều 331 và điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự về quyền kháng cáo:Bị cáo Nguyễn Văn T, bị hại Chu Thị C có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 24/5/2018.
Bản án 01/2018/HSST ngày 24/05/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 01/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Chẽ - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/05/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về