Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 08/02/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/02/2016 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 08 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 40/2017/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2017 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2018/QĐST - HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Kơ Să K’ L, sinh năm: 1987

Nơi cư trú: Thôn Păng Tiêng, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Anh Sùng Sèo T, sinh năm: 1987

Nơi cư trú cuối cùng: Thôn Păng Tiêng, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.

(Chi K’ L có mặt tại phiên tòa; anh Sùng Sèo T đã bị Tòa án tuyên bố mất tích theo Quyết định số 01/2016/QĐDS-ST ngày 04 tháng 5 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/10/2017 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Kơ Să K’ Less trình bày:

Chị và anh Sùng Sèo T đăng ký kết hôn vào năm 2007 tại UBND xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chị chung sống tại thôn Păng Tiêng, xã Lát, huyện Lạc Dương. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn; năm 2010 anh Sùng Sèo T đã bỏ đi, đến nay vẫn không có thông tin gì. Ngày 04/5/2016, Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương đã ra Quyết định số 01/2016/QĐDS-ST tuyên bố anh Sùng Sèo T mất tích theo yêu cầu của chị. Từ thời điểm Tòa án tuyên bố anh T mất tích cho đến nay cũng không có tin tức gì của anh T. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn và anh T đã mất tích nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Sùng Sèo T.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Kơ Să Thùy D, sinh ngày 13/12/2007, hiện đang ở cùng với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Thùy D đến khi trưởng thành.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Bị đơn anh Sùng Sèo T đã bị tuyên bố mất tích theo Quyết định số 01/2016/QĐDS-ST ngày 04 tháng 5 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương.

Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương đã tiến hành hòa giải nhưng không được, do bị đơn anh Sùng Sèo T đã mất tích.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Kơ Să K’ L vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Sùng Sèo T.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Dương phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Dương không có ý kiến gì.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Cho chị Kơ Să K’ L được ly hôn với anh Sùng Sèo T; giao Kơ Să Thùy D, sinh ngày 13/12/2007 cho chị Kơ Să K’ L tiếp tục nuôi dưỡng; Chị Kơ Să K’ L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của chị Kơ Să K’ L đối với anh Sùng Sèo T là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình. Bị đơn là anh Sùng Sèo T đã bị tuyên bố mất tích và nơi cư trú cuối cùng của anh Sùng Sèo T là tại thôn Păng Tiêng, xã Lát, huyện Lạc Dương. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn (bản sao) giữa chị Kơ Să K’ L và anh Sùng Sèo T ngày 28 tháng 5 năm 2007 đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Lát, huyện Lạc Dương thì quan hệ hôn nhân giữa chị K’ L và anh T là quan hệ hôn nhân hợp pháp và phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về yêu cầu xin ly hôn của chị K’ L: Xác định quan hệ hôn nhân giữa chị K’ L và anh Sùng Sèo T là hôn nhân hợp pháp, trên cơ sở tự nguyện; anh T đã bị Tòa án tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật. Từ khi Tòa án tuyên bố anh T mất tích cho đến nay cũng không có tin tức gì của anh T. Nay chị K’L yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh T là có cơ sở, nên cần căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị K’ L.

[4] Về con chung: Chị Kơ Să K’ L và anh Sùng Sèo T có 01 con chung là cháu Kơ Să Thùy D, sinh ngày 13/12/2007, hiện đang ở cùng với chị K’ L. Anh Sùng Sèo T đã mất tích, do đó cần giao cháu Kơ Să Thùy D cho chị K’L tiếp tục nuôi dưỡng như hiện tại là phù hợp, anh Sùng Sèo T không phải cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung: Nguyên đơn là chị K’ L xác định vợ chồng không có tài sản chung, trong khi bị đơn anh Sùng Sèo T bị tuyên bố mất tích nên Tòa án không đặt ra để xem xét giải quyết; nếu sau này bị đơn trở về và có tranh chấp thì được giải quyết bằng vụ án khác theo thủ tục chung.

[6] Về nợ chung: Nguyên đơn là chị K’ L xác định vợ chồng chị không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Chị Kơ Să K’ L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 40, Điều 147 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Kơ Să K’ L: Chị Kơ Să K’ L và anh Sùng Sèo T được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Kơ Să Thùy D, sinh ngày 13/12/2007 cho chị Kơ Să K’ L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành theo quy định của pháp luật, anh Sùng Sèo T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn và thay đổi nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị Kơ Să K’L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2015/0001842 ngày 30/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Dương.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Riêng anh Sùng Sèo T vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

370
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 08/02/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:01/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;