TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 02/01/2018 VỀ LY HÔN GIỮA ANH Q VÀ CHỊ O
Ngày 02/01/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 405/2017/TLST-HNGĐ ngày 10/10/2017 về “Ly hôn và con chung”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2017/QĐXX-ST ngày 30/11/2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: A Nguyễn Văn Q sinh năm 1984 (vắng mặt)
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị O sinh năm 1985 (vắng mặt)
Đều địa chỉ: Thôn H 13, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 19/09/2017 và tại các bản tự khai anh Nguyễn Văn Q là nguyên đơn trình bày: Anh kết hôn với chị Nguyễn Thị O tháng 12/2003, trước khi kết hôn thì 2 bên được tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện L. Cưới xong vợ chồng anh về chung sống với nhau ngay. Vợ chồng sống hòa thuận đến tháng 06/2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống và trong phát triển kinh tế gia đình nên dẫn đến luôn có sự bất hòa với nhau, mọi công việc không đồng thuận, vợ chồng sống không bảo được nhau, việc của ai người đó làm, sống không có tình cảm hạnh phúc nên mọi quan hệ tình cảm vợ chồng cũng chấm dứt từ khi xảy ra mâu thuẫn cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn anh đề nghị Tòa án giải Q cho anh được ly hôn chị O.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thị Lan A sinh ngày 22/11/2004. Nay ly hôn nguyện vọng của cháu xin được ở với anh. Anh đề nghị Tòa án chấp nhận theo nguyện vọng của cháu để anh được trực tiếp nuôi, anh không đề nghị chị O cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Không đề nghị Tòa án giải quyết.
Do công việc bận anh xin được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.
Bị đơn là chị Nguyễn Thị O đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án để làm việc nhưng chị O vẫn cố tình không đến Tòa án mặc dù đã được Tòa án niêm yết và tống đạt các loại văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật cho chị O do ông Nguyễn Hoàng D là bố đẻ nhận thay. Nhưng đến nay chị O vẫn không có bản tự khai gửi cho Tòa án. Tại các biên bản ghi lời khai ông Nguyễn Hoàng D là bố đẻ chị O cho biết, các văn bản tố tụng của Tòa án huyện L gửi cho chị O ông nhận thay và đã giao lại trực tiếp cho chị O, hiện tại chị O đi làm ăn và vẫn thường xuyên về gia đình, chị O đã biết được Tòa án đang tiến hành giải quyết vụ án ly hôn giữa chị và anh Q nhưng chị O cho biết sẽ không về Tòa án huyện L giải quyết ly hôn. Việc Tòa án huyện L giải quyết như nào là quyền của Tòa án.
Tại phiên tòa hôm nay chị O vẫn vắng mặt.
Tại phiên toà đại diện VKS phát biểu ý kiến, thẩm phán, thư ký được phân công giải quyết vụ án tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật còn bị đơn không nghiêm túc chấp hành, đề nghị HĐXX xét xử vụ án theo quy định của pháp luật và áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016, xử:
Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Văn Q và chị Nguyễn Thị O.
Về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Lan A sinh ngày 22/11/2004 cho anh Nguyễn Văn Q trực tiếp nuôi dưỡng.
Sau khi ly hôn chị O được quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở chị O thực hiện quyền này.
Án phí: Anh Nguyễn Văn Q phải chịu 300.000đ án phí ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của KSV, HĐXX nhận thấy:
[1] Về tố tụng: Ngày 30/11/2017 Tòa án đã ra quyế định đưa vụ án ra xét xử và đã giao quyết định xét xử cho anh Q và chị O do ông D là bố đẻ nhận thay và đã niêm yết quyết định xét xử tại địa phương đối với chị O. Nhưng chị O vắng mặt tại phiên tòa xét xử ngày 15/12/2017. Tại quyết định hoãn phiên tòa số 79 ngày 15/12/2017 Tòa án đã ấn định vụ án xét xử vào hồi 07 giờ 30 phút ngày 02/01/2018 nhưng tại phiên tòa chị O vẫn vắng mặt còn anh Q có đơn xin vắng mặt xét xử vụ án. Căn cứ vào Điều 227; 228 BLTTDS, HĐXX tiếp tục xét xử vụ án.
[2] Về nội dung vụ án: Anh Nguyễn Văn Q và chị Nguyễn Thị O kết hôn ngày 24/12/2003 trên cơ sở tự nguyện hợp pháp. Mặc dù có 1 con chung nhưng tình cảm giữa anh Q và chị O vẫn không xây dựng hạnh phúc được với nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn từ năm 2010 giữa anh Q và chị O luôn xảy ra bất đồng quan điểm trong cuộc sống và trong phát triển kinh tế gia đình, dẫn đến hai bên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, từ đó vợ chồng không quan tâm gì đến nhau, việc của ai người đó làm, sống lạnh nhạt không có hạnh phúc, anh Q và chị O chấm dứt mọi quan hệ tình cảm với nhau từ khi xảy ra mâu thuẫn cho đến nay. Qua xác minh tại địa phương được biết chị O vẫn thường xuyên về địa phương, hơn nữa bố đẻ chị O là ông D cho biết chị O hiện nay đang đi làm ăn, vẫn thường xuyên về gia đình ông và đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án do ông trực tiếp giao, chị O biết được Tòa án đang tiến hành giải quyết ly hôn giữa chị và anh Q nhưng chị O không tới Tòa án để giải quyết ly hôn. Điều đó chứng tỏ tình cảm giữa anh Q và chị O không còn, mâu thuẫn căng thẳng kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho anh Q được ly hôn chị O. Xét như vậy là phù hợp với Điều 51; 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Anh Q và chị O có 01 con chung là Nguyễn Thị Lan A sinh ngày 22/11/2004, hiện ở với anh Q, cháu phát triển bình thường. Nay ly hôn nguyện vọng của cháu A xin được ở với anh Q và anh Q cũng yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị O cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy nguyện vọng của cháu A và anh Q phù hợp với quy định của pháp luật, cần chấp nhận, nên giao cho anh Q được trực tiếp nuôi cháu A. Do anh Q không yêu cầu chị O cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn chị O được quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở chị O thực hiện quyền này.
[4] Tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Không có. A Q không đề nghị Toà án giải Q nên HĐXX không đặt ra xem xét giải Q.
[5] Về con chung, tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Nếu sau này chị O có đơn yêu cầu giải quyết thì Tòa án sẽ giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.
[6] Về án phí: Anh Q phải chịu 300.000đ án phí ly hôn.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273 BLTTDS và nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016, xử:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Văn Q và chị Nguyễn Thị O.
2/ Về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Lan A sinh ngày 22/11/2004 cho anh Nguyễn Văn Q trực tiếp nuôi dưỡng.
Sau khi ly hôn chị O được quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở chị O thực hiện quyền này.
3/ Án phí: Anh Nguyễn Văn Q phải chịu 300.000đ án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ anh đã nộp tiền tạm ứng án phí ly hôn theo biên lai thu số AA/2017/002714 ngày 09/10/2017 tại Chi cục thi hành án huyện L. Anh Q đã nộp đủ tiền án phí.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt kết quả bản án.
Án xử công khai sơ thẩm.
Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 02/01/2018 về ly hôn giữa anh Q và chị O
Số hiệu: | 01/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/01/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về