Bản án 01/2018/DS-ST ngày 06/03/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 01/2018/DS-ST NGÀY 06/03/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN VÀ VAY TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 3 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2017/TLST-DS ngày 03/10/2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXX-ST ngày 06/02/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Vũ Văn C, sinh năm 1985.

Địa chỉ thôn N, xã L, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam; có mặt.

2. Bị đơn:

2.1. Bà A Lăng Thị ABL, sinh năm 1978

2.2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972

Đều cùng địa chỉ thôn P, xã L, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam; cả hai cùng có mặt.

3. Người phiên dịch: bà Pa Lăng Thị Hải Y - trình độ Cử nhân Luật; trú tại thôn A, xã L, huyện Tây Giang làm phiên dịch tiếng Cơ tu cho bị đơn, người làm chứng; có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25 tháng 9 năm 2017 và các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa nguyên đơn ông Vũ Văn C trình bày như sau:

Ông là chủ cửa hàng tạp hóa và có cho vợ chồng bà A Lăng Thị ABL, ông Nguyễn Văn T mua hàng hóa nợ và vay tiền nhiều lần. Đến ngày 29/02/2016, ông C và bà ABL, ông T có ngồi chốt nợ thì bà ABL, ông T còn nợ ông C tổng cộng là 324.248.000 (Ba trăm hai mươi bốn triệu hai trăm bốn mươi tám ngàn đồng) bà ABL ký vào giấy nhận nợ và cam kết đến ngày 30/6/2016 sẽ trả toàn bộ số tiền nợ mua hàng hóa và vay tài sản cho ông C là 324.248.000 đồng nhưng chưa trả. Nay ông C yêu cầu Tòa án buộc bà ABL, ông T phải trả cho ông số tiền nợ mua hàng hóa và vay tài sản với số tiền là 324.248.000 đồng. Ngoài ra ông C không yêu cầu gì thêm.

Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn bà A Lăng Thị ABL trình bày:

Từ ngày 16/9/2014 đến ngày 29/02/2016 vợ chồng bà ABL, ông T có mua hàng hóa của ông Vũ Văn C nhiều lần các mặt hàng như: gạo, dầu ăn, mắm, muối, mì chính, rượu, cá, quần áo, đường sữa, xi măng, sắt, tôn, xăng, cạc điện thoại, điện thoại di động và vay mượn tiền nhiều lần tổng cộng là 324.248.000 (Ba trăm hai mươi bốn triệu hai trăm bốn mươi tám ngàn đồng). Trong đó vay tiền mặt là 34.300.000 đồng và mua 31 cái điện thoại di động là 41.160.000 đồng, tiền mua hàng hóa là 248.788.000 đồng. Ngày 29/02/2016, bà ABL đại diện cho hai vợ chồng ký giấy nhận nợ và hẹn đến ngày 30/6/2016 sẽ trả toàn bộ số tiền nợ trên cho ông C, nhưng do làm ăn thua lỗ, vợ chồng mâu thuẫn nên chưa trả được cho ông Vũ Văn C.

Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:

Vợ chồng ông T, bà ABL có mua hàng hóa nhiều lần tại cửa hàng ông Vũ Văn C gồm các mặt hàng như gạo, dầu ăn, mắm, muối, mì chính, mì tôm, cá, quần áo, đường, sữa, xi măng, sắt, xăng, cạc điện thoại để sử dụng trong gia đình là có thật, nhưng trong tổng số tiền nợ ông C 324.248.000 đồng là tính cả tiền bà A Lăng Thị ABL vay 34.300.000 đồng và mua nhiều điện thoại di động là 41.160.000 đồng, tổng cộng bà ABL vay tiền và tiền mua điện thoại là 75.460.000 đồng. Việc bà ABL vay tiền và mua điện thoại của ông C để sử dụng vào mục đích gì thì ông T không biết vì không sử dụng chung trong gia đình, nên ông T không chấp nhận khoản này là nợ chung, mà chỉ chấp nhận có vay mượn tiền của ông C là 3.600.000 đồng  trong khoản vay 34.300.000  đồng là sử dụng trong gia đình nên ông T đồng ý chịu trách nhiệm trả cho ông C 3.600.000 đồng, số tiền còn lại bà ABL vay mượn và mua điện thoại không sử dụng chung trong gia đình thì bà ABL phải tự trả cho ông C.

Vụ án được Tòa án hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử. Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử sơ thẩm.

Về nội dung vụ án:

Căn cứ vào các Điều 430, 440, 463, 469 Bộ luật Dân sự năm 2015. Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Án phí và lệ phí tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn C

Buộc bà A Lăng Thị ABL và ông Nguyễn Văn T phải liên đới theo phần trả ông Vũ Văn C số tiền 324.248.000 đồng.

Về án phí dân sự sơ thẩm bà A Lăng Thị ABL là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn 100% tiền án phí, ông T có hoàn cảnh khó khăn, nên được giảm 50% án phí theo quy định.

Ông Vũ Văn C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp cho ông C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn, người phiên dịch, người làm chứng Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị Th (Nh) có mặt, những người làm chứng các anh Nguyễn Văn Hồng M, Nguyễn Văn N, A Râl Ng, Cơ Lâu Ch vắng mặt không có lý do. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Giang đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người làm chứng. Hội đồng xét xử thấy rằng Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thủ tục phiên tòa cho những người làm chứng và những người làm chứng vắng mặt đã có lời khai bằng văn bản lưu tại hồ sơ vụ án. Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người làm chứng tại phiên tòa.

[2] Về xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án: Theo nguyên đơn ông Vũ Văn C trình bày từ ngày 16/9/2014 đến ngày 29/02/2016 vợ chồng bà ABL, ông T nhiều lần mua hàng hóa và vay mượn tiền của ông tổng cộng là 324.248.000 đồng nhưng đến nay bà ABL, ông T chưa trả tiền, nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ mua hàng hóa và tiền vay tổng cộng là 324.248.000 đồng. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và vay tài sản”.

[3] Về luật nội dung được áp dụng: Thời điểm các bên xác lập giao dịch dân sự thì Bộ luật dân sự năm 2005 đang có hiệu lực thi hành. Tại thời điểm xét xử thì Bộ luật dân sự 2015 đã có hiệu lực. Xét thấy giao dịch chưa được thực hiện xong, nội dung và hình thức của giao dịch phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự 2015, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự 2015, Hội đồng xét xử áp dụng quy định tương ứng của Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết vụ án.

[4] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa ông C vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà A Lăng Thị ABL, ông Nguyễn Văn T trả cho ông số tiền 324.248.000 đồng. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, ông C đã cung cấp cho Tòa án “Giấy nhận nợ” do bà ABL ký ngày 29/02/2016 khi các bên chốt số tiền nợ từ việc mua hàng hóa và vay tài sản trước đó và bà ABL hẹn đến ngày 30/6/2016 là trả hết số nợ cho ông C, nhưng không trả. Do vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông C buộc bà ABL và ông T phải có trách nhiệm liên đới trả cho ông C số tiền 324.248.000 đồng là phù hợp với các Điều 430, 440, 463, 469 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai, tiến hành hòa giải, xác minh, đối chất và tại phiên tòa hôm nay thì bị đơn ông Nguyễn Văn T cho rằng trong số tiền ông và bà ABL nợ 324.248.000 đồng ông Vũ Văn C thì trong đó chỉ có 248.788.000 đồng là tiền mua hàng hóa để sử dụng chung trong gia đình, còn lại là 75.460.000 đồng là tiền vay và mua điện thoại của ông C trong đó ông T chỉ thừa nhận vay tiền của ông C là 3.600.000 đồng để đưa cho mẹ ông về quê và sửa máy nổ là sử dụng chung, còn lại 71.860.000 đồng trong khoản tiền là do bà ABL vay và mua điện thoại, ông T không chấp nhận vì ông cho rằng bà ABL vay tiền và mua điện thoại không sử dụng chung trong gia đình mà bà ABL sử dụng vào mục đích gì ông không biết, nên bà ABL phải chịu trách nhiệm trả cho ông C khoản nợ này. Hơn nữa, vì ông T và bà ABL không có giấy đăng ký kết hôn nên không phải vợ chồng. Ông T chỉ chấp nhận trả cho ông C một nửa của số tiền 248.788.000 đồng tiền mua hàng hóa và một nửa số tiền vay 3.600.000 đồng đây là những khoản nợ được sử dụng chung trong gia đình. Còn bà ABL phải trả cho ông C 71.860.000 đồng là tiền bà ABL vay và mua điện thoại để sử dụng riêng và một nửa của số tiền 248.788.000 đồng là tiền mua hàng hóa và một nửa số tiền vay 3.600.000 đồng để sử dụng chung.

Bị đơn bà A Lăng Thị ABL cho rằng trong số tiền 324.248.000 đồng nợ ông Vũ Văn C  thì có 34.300.000 đồng là tiền vay để trả tiền công chở gỗ, mua đồ ăn và trả nhân công làm vàng cho gia đình, còn 41.160.000 đồng là tiền mua 31 cái điện thoại di động đưa cho các con sử dụng và trả cho những công nhân làm vàng do gia đình không có tiền trả cho họ để họ mua điện thoại, nên bà ABL phải mua điện thoại nợ của ông C đưa cho họ sử dụng rồi trừ vào tiền công họ làm vàng cho gia đình.

Ông T cho rằng bà ABL trình bày là hoàn toàn không đúng sự thật vì tiền công chở gỗ và trả tiền cho công nhân làm vàng là ông bán vàng để trả cho họ, ông cho rằng do bà ABL vay nợ tiền của nhiều người trên địa bàn xã L và xã Tr, huyện Tây Giang không có khả năng trả tiền cho họ nên bà ABL vay tiền và mua điện thoại của ông C để trả cho những người mà bà ABL nợ tiền, nên khoản tiền bà ABL vay và mua điện thoại không sử dụng vào mục đích chung, nên đây là khoản nợ riêng bà ABL phải chịu trách nhiệm trả cho ông C, ông T chỉ chấp nhận trả một nửa số tiền 3.600.000 đồng mà bà ABL vay của ông C để đưa cho mẹ ông về quê và sửa máy là sử dụng chung trong gia đình.

Bà ABL không chứng minh được khoản tiền vay và mua điện thoại để sử dụng vào mục đích chung và tại biên bản đối chất cũng như tại phiên tòa bà ABL nhận trách nhiệm trả cho ông C khoản tiền vay và mua điện thoại là 71.860.000 đồng và một nửa của số tiền 248.788.000 đồng là tiền mua hàng hóa và một nửa số tiền 3.600.000 đồng mà ông T thừa nhận bà ABL vay của ông C để sử dụng chung trong gia đình.

Tại phiên tòa ông Vũ Văn C trình bày do tin tưởng bà ABL, ông T làm vàng, hơn nữa bà ABL nói có tiền gửi ở ngân hàng chưa đến kỳ hạn rút nên ông mới bán nợ hàng hóa và cho vay tiền. Nay ông C đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Từ các căn cứ và phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn C. Do bà A Lăng Thị ABL và ông Nguyễn Văn T chung sống như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn, vì vậy cần chia phần để buộc bà ABL và ông T mỗi người trả 1/2 khoản nợ chung và bà ABL phải trả khoản nợ riêng cho ông C, cụ thể: Bà ABL phải trả cho ông C 71.860.000 đồng và 126.194.000 đồng, tổng cộng hai khoản là 198.054.000 đồng; ông T phải trả ông C 126.194.000 đồng.

Về lãi suất: Ông C không yêu cầu tính lãi trên số tiền nợ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của ông Vũ Văn C được chấp nhận nên buộc bà ABL, ông T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm và hoàn trả cho nguyên đơn ông C toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Bà A Lăng Thị ABL có đơn xin miễn toàn bộ tiền án phí do hoàn cảnh khó khăn, là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận nên  thuộc  trường  hợp  quy  định  điểm  đ  khoản  1  Điều  12  Nghị  quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm, ông Nguyễn Văn T có đơn xin miễn toàn bộ tiền án phí do hoàn cảnh khó khăn, không có nhà ở, hai con đang tuổi ăn học, không có việc làm và sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận nhưng không thuộc trường hợp quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nên xem xét giảm 50% tiền án phí dân sự sơ thẩm là phù hợp pháp luật.

Từ những căn cứ và nhân định trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 430, 440, 463, 469 và điểm b khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm đ Khoản 1 Điều 12, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn ông Vũ Văn C

1. Buộc bà A Lăng Thị ABL trả cho ông Vũ Văn C số tiền nợ vay và mua điện thoại là 71.860.000 đồng và số tiền nợ mua hàng hóa và vay là 126.194.000 đồng. Tổng cộng hai khoản là 198.054.000 đồng (Một trăm chín mươi tám triệu không trăm năm mươi tư ngàn) đồng.

2. Buộc ông Nguyễn Văn T trả cho ông Vũ Văn C số tiền nợ mua hàng hóa và vay là 126.194.000 đồng (Một trăm hai mươi sáu triệu một trăm chín mươi tư ngàn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Nguyễn Văn T phải chịu số tiền 3.154.850

(Ba triệu một trăm năm mươi tư nghìn tám trăm năm mươi đồng).

Ông Vũ Văn C không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho ông Vũ Văn C số tiền 8.106.200 (Tám triệu một trăm linh sáu nghìn hai trăm đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tây Giang theo biên lai thu số 004066 ngày 03/10/2017.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2018/DS-ST ngày 06/03/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và vay tài sản

Số hiệu:01/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Giang - Quảng Nam
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;