TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 01/2017/HSST NGÀY 02/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2017/HSST, ngày 03 tháng 10 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2017/HSST – QĐ ngày 20 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Lò Văn L. Tên gọi khác: Không, sinh năm: 1969, Tại: xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; ĐKHKTT: Bản L, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Cư trú tại: Bản L, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Thái; con ông: Lò Văn B( đã chết) và bà Lò Thị S sinh năm 1946; Bị cáo có vợ: Lò Thị X sinh năm 1973 và có 02 con, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 1998; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; tạm giam giữ từ ngày 20/6/2017 cho đến ngày xét xử; Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì hành vi của Lò Văn L được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ 00 phút, ngày 20 tháng 6 năm 2017, Tổ công tác Đồn Công an Búng Lao, huyện Mường Ảng vào nhà Lò Văn L. Lò Văn L thấy Công an vào nhà đã bỏ chạy nên Công an đuổi theo và yêu cầu Lò Văn L có ma túy thì bỏ ra nên L đã nộp cho Công an 01 gói nilon màu hồng, khi mở ra bên trong có 09 gói nhỏ bột màu trắng nghi là ma túy nên Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.
Tại Cơ quan điều tra, Lò Văn L khai nhận: Khoảng 17 giờ, ngày 19/6/2017, Lò Văn L đi xem ruộng ở khu vực bản L, xã M, huyện M thì thấy người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi không biết tên và địa chỉ. Lò Văn L đã mua của người đó 01 gói heroin được gói bằng túi nilon màu hồng với giá 120.000đ; Khi về đến nhà, Lò Văn L bỏ một ít heroin ra sử dụng bằng hình thức hít. Khoảng 5 giờ 30 phút ngày 20/6/2017, L mang heroin ra chia làm 09 gói nhỏ rồi cất vào túi quần bên phải. Khoảng 10 giờ ngày 20/6/2017, L đang ở nhà thì thấy Công an đến nhà sợ bị phát hiện nên đã bỏ chạy. Công an đuổi theo bắt được và yêu cầu L có ma túy thì bỏ ra nên L đã lấy heroin trong túi quần ra giao nộp cho Công an.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng ngày 20/6/2017 thì vật chứng thu giữ của L gồm: 09 gói bột màu trắng có trọng lượng là: 0,34g, đồng thời trích lấy 0,06g để mang đi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 592/GĐ – PC 54, ngày 16/7/2017 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: 0,34 gam là heroin.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.
Cáo trạng số 55/QĐ – VKS – HS, ngày 03/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố bị cáo Lò Văn L về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy " theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết 41/2016/QH14 ngày 20/6/2017; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; để áp dụng theo hướng có lợi cho bị cáo; Xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c
Khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điểm a Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu để tiêu hủy: 0,28g heroin, trả lại cho bị cáo số tiền là: 115.000đ. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Lời nói sau cùng, Lò Văn L nhận phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn L công nhận: Khoảng 17 giờ, ngày 19/6/2017, Lò Văn L đi xem ruộng ở khu vực bản L, xã M, huyện M thì thấy người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi không biết tên và địa chỉ. Lò Văn L đã mua của người đó 01 gói heroin được gói bằng túi nilon màu hồng với giá 120.000đ; Khi về đến nhà, Lò Văn L bỏ một ít heroin ra sử dụng bằng hình thức hít. Khoảng 5 giờ 30 phút ngày 20/6/2017, L mang heroin ra chia làm 09 gói nhỏ có trọng lượng là 0,34 g heroin nhằm mục đích sử dụng dần thì bị Công an vào nhà phát hiện bắt quả tang.
Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với biên bản xác định trọng lượng ngày 20/6/2017 và kết luận giám định số 592/GĐ – PC 54, ngày 16/7/2017 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 0,34 gam là heroin, cũng như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 20/6/2017 đối với Lò Văn L.
Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lò Văn L tàng trữ trái phép 0,34 g heroin nhằm mục đích sử dụng nên đã phạm tội“ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã gây ra cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.
Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 48 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 và theo Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có hình phạt thấp hơn Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 nên áp dụng theo hướng có lợi cho bị cáo. Bị cáo sinh ra và lớn lên trong gia đình thuần nông, được bố mẹ nuôi ăn học hết lớp 7 rồi bỏ học ở nhà lao động sản xuất; năm 1990 kết hôn với chị Lò Thị X và có 2 người con; năm 1991 đi nghĩa vụ quân sự đến năm 1995 xuất ngũ về địa phương sinh sống. Do ăn chơi đua đòi dẫn đến nghiện ma túy nên năm 2001 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xử phạt 36 tháng tù về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” đến năm 2003 chấp hành xong hình phạt tù về địa phương sinh sống. Năm 2009 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng xử phạt 36 tháng tù về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” đến tháng 12/2011 chấp hành xong hình phạt vê địa phương sinh sống nên mặc dù bị cáo được xóa án tích nhưng có nhân thân không tốt. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, nhằm sau này trở thành công dân có ích cho xã hội.
Ngoài hình phạt chính, qua xác minh thì gia đình của bị cáo thực sự khó khăn, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo Khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng: 0,28gam heroin còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; Số tiền 115.000đ không phải vật chứng nên trả lại cho bị cáo.
Về án phí: Bị cáo Lò Văn L thuộc diện hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí hình sự sơ thẩm nên Hội đồng xét xử xem xét cần miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn L phạm tội: " Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Lò Văn L 24( Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20 tháng 6 năm 2017.
2. Vật chứng: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điểm a Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 0,28 gam heroin; trả lại cho bị cáo số tiền là: 115.000đ ( theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự ngày 03/10/2017)
3. Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 01/2017/HSST ngày 02/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 01/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về