Bản án 01/2017/HC-ST ngày 17/02/2017 về kiện quyết định hành chính

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 01/2017/HC-ST NGÀY 17/02/2017 VỀ KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH

Trong các ngày 16-17/02/2017, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện K mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hành chính thụ lý số 06/2016/TLST-HC ngày 05 tháng 5 năm 2016, về việc: “Kiện Quyết định hành chính về việc giải quyết khiếu nại lần hai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03a/2016/QĐXX-HC ngày15 tháng 9 năm 2016, và Thông báo mở lại phiên tòa ngày 20/01/2017, giữa:

* Người khởi kiện: Ông Nguyễn Hồng M, bà Nguyễn Thị L Địa chỉ: Thôn Đ, xã D, huyện K, tỉnh Đăk Nông. Có mặt.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người khởi kiện: Ông Đặng Tiến– Luật sư, thuộc Trung tâm tư vấn pháp luật – Hội luật gia tỉnh Đăk Lăk. Có mặt.

* Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện K tỉnh Đăk Nông

Có Người đại diện theo ủy quyền là ông Ngô Xuân Đ Chức vụ: Phó chủ tịch UBND huyện K. Có mặt. ( Theo văn bản ủy quyền ngày 08/8/2016)

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

1) Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã D. Có mặt

2) Anh Nguyễn Hồng Q, chị Nguyễn Thị Trà G (con đẻ ông M, bà L). Anh Q vắng mặt, chị G có mặt.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã D, huyện K, tỉnh Đăk Nông.

3) Ông Đỗ Văn X, bà Mai Thị H

Địa chỉ: Tổ 04 thị trấn B, huyện K, tỉnh Đăk Nông. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, Người khởi kiện là ông Nguyễn Hồng M, bà Nguyễn Thị L trình bày: Tháng 2/1988 gia đình ông M, bà L đi xây dựng vùng kinh tế mới tại xã D huyện K, đến tháng 6/1988 gia đình Ông Bà có khai hoang một đám rẫy với diện tích 3.069m2 tính từ mép đường tỉnh lộ 4 ra phía sau với chiều ngang mặt đường tỉnh lộ 4 là 33m, chiều dài là 93m, tổng diện tích 3.069m2 (chưa trừ hành lang giao thông là 15m chiều dài), nếu trừ hành lang giao thông, diện tích đất còn lại sẽ là 2.574m2.

Năm 1991, gia đình Ông Bà đã xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với diện tích gia đình khai hoang năm 1988 với tổng diện tích là 2.574m2, UBND huyện K đã cấp theo Quyết định số 19/QĐ-UB ngày 14/11/1991, nhưng diện tích được cấp chỉ 1.000m2, số diện tích đất còn lại 1.574m2 UBND huyện chưa cấp giấy CNQSDĐ, và không nêu lý do, đến năm 1995 gia đình Ông tiếp tục làm đơn đề nghị gửi lên UBND xã D đề nghị xin cấp giấy CNQSDĐ đối với diện tích đất còn lại, đơn xin đã được ông Phạm Ngọc K, chủ tịch UBND xã lúc đó ký tên và đóng dấu đề ngày 23/2/1995.

Vào ngày 27/5/2015, gia đình Ông Bà nhận được thông báo của UBND huyện K yêu cầu gia đình Ông Bà phải tháo dỡ nhà, trả lại đất cho ông Đỗ Văn X, đến ngày 14/3/2016 Ông lên Thanh tra huyện Ông mới nhận được Quyết định 1215/QĐ-CTUBND ngày 08/5/2015 của Chủ tịch UBND huyện K (QĐ 1215), nhận thấy Quyết định trên buộc Ông phải trả lại phần diện tích đất mà Ông đã sử dụng ổn định, liên lục qua nhiều năm không tranh chấp với ai, đã làm đơn xin cấp GCNQSDĐ, nay phải trả lại cho ông Đỗ Văn X là không có căn cứ, vì vậy gia đình Ông khởi kiện ra Tòa án, yêu cầu hủy QĐ 1215 với lý do: QĐ 1215 xác định sai nguồn gốc đất, diện tích đất mà Ông X khiếu nại không phải do bà H khai hoang, mà do gia đình Ông khai hoang, khi khai phá có đổi công với hai ông Phạm Trần H, Nguyễn Thế N. Về việc tranh chấp với bà H, là do trước đây bà H có cho Ông Bà một phần diện tích đất, việc cho chỉ bằng miệng, vào năm 1994, khi thấy ông chuyển nhà từ dưới đường lên, bà H đòi lại, bà H đã viết đơn lên Ủy ban nhân dân (UBND) huyện K và UBND huyện đã ra quyết định cưỡng chế, nhưng ông bà đã tự nguyện tháo dỡ nhà và trả lại đất cho UBND xã D, chứ không phải trả lại cho bà H, diện tích mà Ông Bà trả lại có chiều ngang giáp tỉnh lộ 4 là 22m, chiều sâu khoảng 50m, hiện gia đình ông Vũ Văn C đang sử dụng một phần diện tích mà ông đã trả vào năm 1995, có chiều ngang giáp tỉnh lộ 4 là 07m, chiều sâu khoảng 50m. Đối với diện tích mà QĐ 1215 yêu cầu ông phải trả cho gia đình ông X không liên quan đến diện tích mà Ông đã trả vào năm 1995 do UBND huyện tổ chức cưỡng chế. Vì vậy, Ông Bà khởi kiện ra Tòa án.

- Người bị kiện có Người đại diện theo ủy quyền là ông Ngô Xuân Đ  trình bày:

Trong năm 2013, ông Đỗ Văn X đã có đơn yêu cầu đề nghị được cấp GCNQSDĐ đối với một phần diện tích thửa đất số 43 tờ bản đồ số 02, thuộc thôn Đ, xã D, do trước đây nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Yên H (ông Nguyễn Yên H nhận chuyển nhượng lại từ bà H), nhưng UBND xã D không đồng ý. Ngày 25/9/2013, ông X có đơn khiếu nại lên Chủ tịch UBND xã và Chủ tịch UBND xã D đã ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 42/QĐ-UBND ngày 24/6/2013 (QĐ 42) với nội dung, không đồng ý với yêu cầu của ông X, ông X tiếp tục khiếu nại lên UBND huyện K tiếp tục đề nghị được cấp giấy CNQSDĐ đối với thửa đất số 43 tờ bản đồ số 02, trên cơ sở khiếu nại của ông Đỗ Văn X, Chủ tịch UBND huyện đã lập đoàn xác minh số 2647 xác minh thu thập chứng cứ, qua xác minh hiện trạng đất ông Nguyễn Hồng M đang sử dụng: phía đông giáp tỉnh lộ 4 là 22,2m; phía tây giáp đất ông Vũ Trung T là 23,6m; phía nam giáp đất trống dài 49,1m; phía bắc giáp đất ông Phạm Minh Đ dài 50m, so sánh với diện tích được cấp theo Giấy CNQSDĐ của gia đình ông Nguyễn Hồng M được cấp trước đây trên cơ sở biến động là gia đình ông M đã chuyển nhượng cho ông Đặng Thanh T, và gia đình ông Hoàng Trung D, thì gia đình ông Nguyễn Hồng M đang sử dụng phần diện tích vượt quá so với diện tích được cấp, có tứ cận như sau: Phía đông giáp tỉnh lộ 4 là 12,2m; Phía tây giáp đất ông Vũ Trung T là 13,6m; Phía nam giáp đất chưa sử dụng dài 49,7m; Phía bắc giáp đất ông Nguyễn Hồng M dài 50,9m, có tổng diện tích 647,8m2. Về nguồn gốc đối với phần diện tích vượt quá này là do trước đây bà H khai hoang vào năm 1988, bà H có canh tác vài năm thì cho ông Phạm Ngọc R mượn, khi ông R vào canh tác thì thấy có ông Nguyễn Hồng M đang canh tác, nên ông R không sản xuất nữa, đến năm 1994 bà H đòi lại đất ông M, nhưng ông M không trả, bà H làm đơn gửi lên UBND tỉnh Đăk Lăk, UBND tỉnh Đăk Lăk chuyển đơn về UBND huyện K xem xét giải quyết, qua quá trình giải quyết, UBND huyện K xác định đất do bà H khai hoang, nên vào năm 1995, UBND huyện K đã tổ chức cưỡng chế đối với gia đình ông M, ông M sau đó tự nguyện trả lại đất cho bà H. Năm 1996 khi bà H vào phát dọn để canh tác thì ông M lại ngăn cản, bà H không canh tác nữa mà đề nghị UBND xã làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho bà, năm 2000 bà tiếp tục đến UBND xã kê khai xin cấp GCNQSDĐ, đến năm 2004 bà tiếp tục đến UBND xã xin cấp giấy CNQSDĐ nhưng UBND xã từ chối vì đất đã được quy hoạch.

Về vấn đề quy hoạch, năm 2008, nhân dân thôn Đ tiến hành xây dựng Hội trường thôn trên một phần diện tích thửa đất số 43 tờ bản đồ số 2, diện tích sử dụng là 71m2, trên tổng diện tích sử dụng đất là 323,4m2, phía tiếp giáp tỉnh lộ 4 chiều rộng là 8m, theo biên bản họp thôn đề nghị ngày 06/4/2015, đề nghị được sử dụng phần tiếp giáp tỉnh lộ 4 là 14m.

Cở sở của việc xây dựng hội trường thôn, vào năm 1996 UBND xã D đã quy hoạch thửa đất số 43 tờ bản đồ số 02 là đất chuyên dùng, có tứ cận:

- Phía đông giáp tỉnh lộ 4 là 34,3m;

- Phía tây giáp thửa 12a là 35,1m

- phía nam giáp đất ông Vũ Văn C là 21,5m;

- Phía bắc giáp đất ông Nguyễn Hồng M là 19,6m Tổng diện tích: 690m2

Việc quy hoạch đã được UBND xã thông qua ngày 19/7/2001 và UBND huyện K ban hành Quyết định số 807 ngày 28/9/2001 phê duyệt phương án.

Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của gia đình ông Nguyễn Hồng M: Năm 1991, gia đình ông Nguyễn Hồng M được UBND huyện K giao đất theo Quyết định số 19 ngày 14/11/1991, có chiều giáp tỉnh lộ 4 là 20m, chiều sâu 50m, tổng diện tích 1000m2. Quá trình sử dụng, năm 1997 ông M chuyển nhượng lại cho ông Đặng Thanh T 05m mặt đường, năm 2003 ông T chuyển nhượng lại cho ông Lê Văn T, đến năm 2007 ông M tiếp tục sang nhượng cho ông Hoàng Trung D thêm 05m mặt đường, ông D sang nhượng lại cho ông Phạm Minh Đ, qua hai lần chuyển nhượng, gia đình ông M đã chuyển nhượng là 350m2, có cạnh tiếp giáp tỉnh lộ 4 là 10m và chiều dài là 50m. Các GNQSDĐ được cấp đổi do đã chuyển nhượng thể hiện: GCNQSDĐ HD. 060481 và GCNQSDĐ số HD 060482 tổng là 650m2, đất ở 180m2, đất trồng cây hàng năm 470m2. So sánh với hiện trạng thực tế, hiện nay gia đình ông M đang sử dụng là 22,2m mặt đường, như vậy hiện gia đình ông M đang sử dụng thừa 647,8m2, trong đó phía tiếp giáp tỉnh lộ 4 là 12,2m (các số liệu trên đã được đo đạc thực tế) Ngoài ra, căn cứ vào nhiều tài liệu khác như Thông báo số 07/TB-ĐC ngày 14/11/1999, về việc trả lời khiếu nại của ông Vũ Văn C của Phòng địa chính huyện K và Quyết định số 335/QĐ-CTUBND ngày 18/3/2010 của Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Nông về việc giải quyết tranh chấp đất đai có đủ cơ sở khẳng định, gia đình ông M chỉ được cấp 1.000m2, quá trình sử dụng gia đình ông M đã có hành vi lấn chiếm cho đến hiện nay là 647,8m2, diện tích đất này có nguồn gốc là của H khai phá, nhưng bà H đã chuyển nhượng, vì ông Đỗ Văn X là người nhận chuyển nhượng cuối cùng, căn cứ vào các quy định pháp luật đất đai hiện hành, và hiện nay thôn không còn nhu cầu sử dụng, vì vậy Chủ tịch UBND huyện không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M, bà L, giữ nguyên giá trị của QĐ 1215.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Chủ tịch UBND xã D là ông Mai Văn V trình bày: Quyết định số 42 ban hành trên cơ sở giải quyết khiếu nại lần đầu của ông X, về nguồn gốc đất mà ông X khiếu nại, Quyết định 42 vẫn xác định là do bà H khai phá, tuy nhiên vì đất đã được quy hoạch giai đoạn 2001 đến 2010, và ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh là giao đất cho UBND xã nên đã từ chối làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông X, tuy nhiên sau khi ông X khiếu nại và Chủ tịch UBND huyện ban hành Quyết định 1215, UBND xã đã chấp hành và mời gia đình ông M lên làm việc. Trước yêu cầu khởi kiện của ông M, bà L, Chủ tịch UBND xã không có yêu cầu độc lập, đồng ý với việc giải quyết của QĐ 1215.

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Hồng Q và chị Nguyễn Thị Trà G đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông M, bà L.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn X, bà Mai Thị H đồng ý với nội dung giải quyết của QĐ 1215.

Tại phiên tòa Người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Người bị kiện giữ nguyên ý kiến.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan  chị G thống nhất với ý kiến của ông M bà L.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông X, bà H, ông V đồng ý với ý kiến của Người bị kiện.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện phát biểu quanđiểm:  Về trình tự thủ tục, QĐ 1215 vi phạm Luật khiếu nại 2011, cụ thể vi phạm Điều 39, khi đối thoại không có sự tham gia của ông M, bà L; Điểm g, h khoản 2 Điều 40, vi phạm về thẩm quyền, việc Chủ tịch UBND huyện hủy QĐ số 42 của chủ tịch UBND xã D là vượt quá thẩm quyền, Chủ tịch UBND huyện chỉ được kiến nghị Chủ tịch UBND xã sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định số 42, ngoài ra QĐ 1215 còn vi phạm Điều 41, vi phạm về thời hạn gửi Quyết định cho ông M, bà L. Về căn cứ thực tế, QĐ 1215 khẳng định nguồn gốc đất mà ông X khiếu nại do bà H khai phá là không đúng thực tế, từ đó đề nghị công nhận quyền sử dụng đất cho ông X, bà H là không có căn cứ. Đề nghị HĐXX hủy toàn bộ QĐ 1215.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Việc thụ lý giải quyết vụ án đúng theo quy định pháp luật, về yêu cầu khởi kiện của ông M, bà L có đủ căn cứ cho rằng, ông M bà L chỉ được cấp đất theo Quyết định số 19/QĐ-UB ngày 14/11//1991, với diện tích là 1.000m2  có chiều rộng mặt đường là 20m, chiều sâu là 50m, trên cơ sở biến động là việc ông M, bà L đã chuyển nhượng cho người khác một phần diện tích, nay gia đình ông M đang sử dụng vượt quá 647,8m2 , phần diện tích vượt quá này là do lấn chiếm, và có nguồn gốc do bà H khai phá. Vì Quyết định số 42 không chấp nhận khiếu nại của ông X là không đảm bảo, nên Quyết định 1215 hủy Quyết định số 42 là có căn cứ. Đề nghị HĐXX bác yêu cầu khởi kiện của ông M, bà L.

Sau khi các bên tranh luận tại phiên tòa, Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ có trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thời hiệu khởi kiện: Theo ông M, ngày 14/3/2016 ông M mới chính thức nhận được Quyết định 1215/QĐ-CTUBND ngày 08/5/2015, Người bị kiện thừa nhận điều này, vì vậy việc ngày 28/4/2016 ông M, bà L gửi đơn khởi kiện đến Tòa án là trong thời hiệu khởi kiện.Về thẩm quyền ban hành Quyết định 1215: Quyết định 1215 là Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai đối với khiếu nại của ông Đỗ Văn X đối với Quyết định số 42/QĐ-UBND ngày 24 tháng 6 năm 2013 của Chủ tịch UBND xã D, vì vậy Chủ  tịchUBND huyện K ký ban hành là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 18 Luật khiếu nại năm 2011.

Về trình tự, thủ tục ban hành Quyết định 1215: Người khởi kiện cho rằng Người bị kiện vi phạm trình tự, thủ tục, cụ thể là vi phạm Điều 39, Điều 40, Điều 41 Luật khiếu nại 2011. Tuy nhiên các tài liệu, chứng cứ thể hiện, ngày 23/4/2015, Chủ tịch UBND huyện K đã tổ chức phiên đối thoại, ông M có đến phiên đối thoại, nhưng ông M bỏ về khi phiên đối thoại chưa kết thúc, tại biên bản xác minh ngày 24/12/2013 thể hiện, đoàn xác minh cũng đã làm việc với gia đình ông M. Tại kết quả đo đạc ngày 06/5/2015, ông M có tham gia và chỉ ranh giới. Về phiên đối thoại ngày 23/4/2015, ông M thừa nhận, có nhận được giấy mời và đến, mặc dù ông khai không biết nội dung gì, không phải bỏ về giữa chừng, mà được một cán bộ UBND huyện mời ra về, nhưng đã có căn cứ cho rằng quá trình giải quyết, Chủ tịch UBND huyện đã tổ chức phiên đối thoại, có mời ông M tham gia, như vậy đã có căn cứ kết luận, trình tự thủ tục ban hành QĐ 1215 đảm bảo theo Điều 39 Luật khiếu nại 2011. Về việc QĐ 1215 hủy QĐ 42 là đúng theo tinh thần hướng dẫn theo Thông tư 07/2013/TT-TTCP, ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ. Việc giao QĐ 121 cho ông M vào ngày 14/3/2016 là chưa đúng thời gian quy định, nhưng không ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của ông Nguyễn Hồng M, bà Nguyễn Thị L.

Do vậy trình tự, thủ tục ban hành QĐ 1215 là đã cơ bản đảm bảo theo các quy định của Luật khiếu nại năm 2011.

Về mặt nội dung: Ông Nguyễn Hồng M và bà Nguyễn Thị L yêu cầu hủy Quyết định 1215 với lý do xác định nguồn gốc đất sai, cụ thể QĐ 1215 xác định nguồn gốc đất trước đây do bà H khai phá là sai, từ đó không công nhận diện tích trên cho gia đình Ông, mà lại công nhận quyền sử dụng đất cho ông Đỗ Văn X, bà Mai Thị H là không đúng. Chứng cứ ông M đưa ra là những người làm chứng là các ông Phạm Trần H, Nguyễn Thế N chứng minh Ông là người khai hoang đầu tiên, và tại đơn xin cấp GCNQSDĐ ngày 23/2/1995, trong đó xác nhận của ông Phạm Ngọc K là chủ tịch UBND xã khi đó, đã thể hiện Ông là người đã từng kê khai diện tích đất trên. Ngoài ra Ông M còn cung cấp thêm những người làm chứng là các ông Vũ Ngọc S, Lưu Văn K chứng minh diện tích đất Ông tranh chấp với bà H trước đây Ông đã tự nguyện giao lại cho UBND xã D, diện tích giao 22m mặt đường, sâu 50m, Ông không lấn chiếm lại diện tích đã trả.

Người bị kiện lại cho rằng, nguồn gốc đất mà ông X khiếu nại trước đây là do bà H khai phá vào năm 1988, chứng cứ là căn cứ vào các kết quả giải quyết tranh chấp trước đây giữa gia đình ông M với gia đình ông Vũ Trung T, Vũ Văn C, Phòng địa chính huyện K và UBND tỉnh Đăk Nông đã có quyết định giải quyết trong đó kết luận, gia đình ông M, bà L chỉ được cấp 1.000m2, phần diện tích còn lại là do lấn chiếm.

Mặc dù những người làm chứng do ông M cung cấp là các ông Phạm Trần H, ông Nguyễn Thế N khai, có được tham gia khai hoang cùng gia đình ông M nhưng không biết rõ diện tích và tứ cận, lời khai của ông Vũ Ngọc S, Lưu Văn K chỉ xácnhận nội dung ông M có trả lại đất cho hội trường thôn, ông Vũ Văn C bị thu hồi 07m mặt đường. Trong khi đó, bà H khẳng định, diện tích mà gia đình ông X khiếu nại chính là diện tích đất trước đây bà H khai phá năm 1988, sau đó có tranh chấp với gia đình ông M vào năm 1994, và được UBND huyện cưỡng chế thu hồi vào năm 1995. Lời khai của ông Phạm Ngọc K là chủ tịch UBND xã trước đây cũng không công nhận nội dung như ông M đã khai, theo ông K lý do ông ký xác nhận vào đơn kê khai của ông M là do thời điểm đó, do thấy gia đình ông M sinh sống ở phía dưới tỉnh lộ 4 hiện nay, có dòng nước chảy qua, ảnh hưởng đến đời sống nên ông ký đề nghị cấp trên xem xét giải quyết đất ở cho ông M, ông ký chỉ đối với phần đất phía dưới đường, ông thừa nhận nội dung xác nhận: “UBND xã D đề nghị các quý cấp xem xét nghiên cứu trường hợp đất thổ cư gia đình ông M, được biết lô đất này huyện đã có kế hoạch làm cống thoát nước qua đường liên huyện”. Mặt khác, chứng cứ của Người bị kiện đã cung cấp thấy rằng, tại Thông báo số 07/TB-ĐC, ngày 14/11/1999 về việc trả lời khiếu nại của ông Vũ Văn C của Phòng địa chính huyện K có nội dung “ Căn cứ vào Quyết định số 19/QĐ-UB ông M được cấp đất với diện tích 1.000m2, trên thực tế ông M sử dụng 1.372m2, sử dụng vượt so với được cấp là 372m2, yêu cầu ông M không xây dựng kiên cố hoặc trồng cây công nghiệp trên diện tích lấn chiếm”. Tại Quyết định số 335/QĐ-CTUBND ngày 18/3/2010 của Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Nông về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông Nguyễn Hồng M với ông Vũ Trung T đã nhận định có đoạn : .. Việc ông Nguyễn Hồng M cho rằng, diện tích 850m2 đất tranh chấp là do ông khai hoang và sử dụng từ năm 1988 là không phù hợp với kết quả thẩm tra, xác minh, hiện trạng sử dụng đất và không có cơ sở vì: “ Trước thời điểm năm 1991, đất và nhà ông M ở phía dưới đường tỉnh lộ 4, đến năm 1991 đã bị giải tỏa để xây dựng cống thoát nước và được UBND huyện cấp 01 lô đất theo QĐ 19 (20x50) .. năm 1999 diện tích ông M  sử dụng tăng lên 1.372m2; hiện tại ông M sử dụng diện tích là 1.741m2 (25,6x68m) vượt so với diện tích được cấp là 741m2, vượt so với diện tích đo năm 1999 là 369m2. Qua đó chứng tỏ trong quá trình sử dụng diện tích đất được nhà nước cấp, ông M  đã có hành vi lấn chiếm mở rộng diện tích đất về các phía. Đồng thời trong quá trình xác minh của Sở TN-MT, Phòng TN-MT ông M không xác định được cụ thể thời điểm sử dụng diện tích khai hoang mà ông cho rằng đã sử dụng ổn định từ năm 1988 đến nay…”. Hai văn bản trên, ông M thừa nhận đã nhận được. Hiện hai văn bản trên vẫn còn giá trị pháp lý, nội dung hai văn bản đều đã khẳng định, thứ nhất ông M chỉ được cấp 1.000m2, thứ hai ông M có hành vi lấn về các phía trong quá trình sử dụng.

Về ý kiến của ông M cho rằng, không hề lấn chiếm lại diện tích đất đã trả lại cho UBND xã D vào năm 1995 và yêu cầu Người bị kiện cung cấp hồ sơ cưỡng chế, Người bị kiện thừa nhận hiện nay không cung cấp được hồ sơ cưỡng chế do thất lạc, nhưng trên bản đồ quy hoạch, phần diện tích này đã được quy hoạch là đất chuyên dùng trước đây, đó cũng là lý do UBND xã D từ chối làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho bà H và ông X, chứ không phải là đất do ông M khai hoang sử dụng ổn định. Kết quả xác minh tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện K, phần diện tích đất tranh chấp là thuộc thửa 43 tờ bản đồ số 02, có một phần thuộc diện tích thửa 12a, toàn bộ diện tích đất này đã được quy hoạch là đất chuyên dùng trước đâyViệc Quyết định 1215 không công nhận phần diện tích đất mà ông X khiếu nại là do gia đình ông M khai hoang, sử dụng ổn định liên tục là có căn cứ. Từ những phân tích trên, HĐXX thấy cần bác yêu cầu khởi kiện của Ông Nguyễn Hồng M và bà Nguyễn Thị L yêu cầu hủy Quyết định 1215/QĐ- CTUBNDngày 08/5/2015 của Chủ tịch UBND huyện K.

Về án phí: Buộc ông M, bà L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 193, Điều 194 Luật tố tụng hành chính; Điều 34 Pháp lệnh về án phí, lệ phí tòa án

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hồng M và bà Nguyễn Thị L.

2. Án phí: Buộc Ông Nguyễn Hồng M và bà Nguyễn Thị L phải chịu án phí sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông M đã nộp là 200.000đ theo biên lai số 007350 ngày 04/5/2016 tại Chi cục Thi hành án huyện K.

Quyền kháng cáo: Người khởi kiện, Người bị kiện, Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1063
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2017/HC-ST ngày 17/02/2017 về kiện quyết định hành chính

Số hiệu:01/2017/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 17/02/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;