TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 01/2017/DS-ST NGÀY 11/04/2017 VỀ YÊU CẦU TUYÊN HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QSD ĐẤT VÔ HIỆU VÀ HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT
Ngày 11 tháng 04 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử công khai vụ án thụ lý số 02/2017/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2017 về “Yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và Hủy quyết định cá biệt”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2017/QĐXX- ST ngày 01 tháng 03 năm 2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1952; Có mặt.
2. Bị đơn: Chị Võ Thị H, sinh năm 1984. Có mặt; Anh Chu Thành L, sinh năm 1977. Vắng mặt (Có đơn xin vắng mặt).
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Chu Văn L, sinh 1947;
Các đương sự trên đều trú tại: Xóm 5, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
- UBND huyện D, tỉnh Nghệ An. Đại diện theo ủy quyền có ông: Phan Huy Cường – Chức vụ: Phó phòng Tài nguyên – Môi trường huyện D. Vắng mặt (Có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 03/12/2016, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị L trình bày:
Bà và ông Chu Văn L là vợ chồng, ông bà có thửa đất thổ cư số 766, tờ bản đồ số 106-59, diện tích 848m2 tại xóm 5, xã D, huyện D là tài sản chung của vợ chồng. Năm 2008, ông Chu Văn L làm hợp đồng chuyển nhượng cho 02 con trai là Chu Thành L và Chu Hương L diện tích đất của vợ chồng mà không thông qua ý kiến của bà. Năm 2016, bà phát hiện ra và đã đề nghị họp gia đình để đảm bảo quyền lợi của mình, hơn nữa vợ chồng bà có 4 người con (ba trai một gái). Con trai là Chu Hương L đã đồng ý làm thủ tục Hủy giấy chứng nhận và đã làm xong, còn vợ chồng Chu Thành L và Võ Thị H không đồng ý nên bà đã làm đơn khởi kiện lên Tòa án đề nghị tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Chu Văn L và anh Chu Thành L, chị Võ Thị H vô hiệu; Đề nghị Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 983957 ngày 15/07/2008 mang tên anh Chu Thành L và chị Võ Thị H của UBND huyện D.
Bị đơn chị Võ Thị H trình bày: Chị và anh Chu Thành L kết hôn năm 2003. Năm 2005 vợ chồng là nhà trên đất của bố mẹ chồng là ông Chu Văn L và bà Trần Thị L. Năm 2008, bố mẹ chồng là ông Chu Văn L và bà Trần Thị L thống nhất làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng với diện tích 342m2 tại thửa 1083, tờ bản đồ số 106-59 tại xóm 5, xã D, huyện D, trong hợp đồng bên chuyển nhượng chỉ ghi tên ông Chu Văn L và cũng chỉ ông Lư ký, bên nhận chuyển nhượng ghi tên hai vợ chồng chị nhưng chỉ có chị ký tên là Chu Thành L còn anh Long không ký, sau đó đã được UBND huyện D cấp Giấy chứng nhận QSD đất mang tên Chu Thành L và Võ Thị H. Nay bà Loan khởi kiện chị đồng ý để trả lại đất cho ông bà. Khi chuyển nhượng vợ chồng chị không phải thanh toán tiền cho ông Chu Văn L. Trên thửa đất vợ chồng chị đã xây dựng nhà ở trước khi làm thủ tục chuyển nhượng. Về hậu quả của hợp đồng để hai bên tự giải quyết, nếu không thỏa thuận được chị sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.
Bị đơn anh Chu Thành L trình bày: Khi bố anh là ông Chu Văn L làm hợp đồng chuyển nhượng QSD đất cho anh và em trai là Chu Hương L mẹ anh là bà Trần Thị L đang đi chăm em dâu ở Vinh nên không biết việc chuyển nhượng này. Ở nhà chỉ có ông Chu Văn L tiến hành làm các thủ tục. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vợ chồng cất đi. Đến đầu năm 2016, mẹ anh mới biết chuyện ông Lư mình tự chuyển quyền sử dụng đất cho các con mà không thông qua bà nên bà Loan đã đề nghị họp gia đình bàn lại để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bà. Em trai là Chu Hương L đã đồng ý hủy GCNQSD đất còn anh chưa đồng ý vì khi đó vợ chồng đã xây nhà ở kiên cố trên thửa đất. Nay mẹ anh là bà Trần Thị L làm đơn khởi kiện lên Tòa án yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Chu Văn Tư và anh Chu Thành L, chị Võ Thị H vô hiệu; Đề nghị Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 983957 ngày 15/07/2008 mang tên anh Chu Thành L và chị Võ Thị H thì anh đồng ý vì để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà Loan.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Chu Văn L trình bày: Về nội dung sự việc đúng như bà Trần Thị L và anh Chu Thành L trình bày. Khi ông làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Chu Thành L và Võ Thị H thì ông không thông qua vợ là Trần Thị L, ngoài ra khi làm thủ tục chuyển nhượng QSD đất ông không lấy tiền chuyển nhượng của vợ chồng Long – Hằng vì ông nghĩ là cho con. Đến năm 2016, bà Loan biết ông tự ý tách bìa đỏ cho 02 con nên vợ chồng bất đồng. Ông cũng thấy do nhận thức của ông không đúng nên đã ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ là bà Loan nên ông đề nghị Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của bà Trần Thị L.
Đại diện UBND huyện D trình bày ý kiến: Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Chu Văn L và ông Chu Thành L, chị Võ Thị H không có tên bà Trần Thị L (vợ ông Lư), có tên chị Võ Thị H nhưng không có chữ ký của chị Hằng, tại thời điểm chứng thực không có mặt bà Loan. Bà Loan không ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không đúng quy định pháp luật nên UBND huyện D thống nhất đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo yêu cầu của bà Trần Thị L.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Về nội dung, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1996 là cấp cho hộ ông Chu Lư, Giấy chứng nhận quyền sử dụng cấp năm 2008 là ông Chu Văn L, nhưng không có tài liệu chứng minh ông Chu Lư và ông Chu Văn L là một người; Hộ ông Chu Lư năm 1996 có bao nhiêu thành viên, có bà Trần Thị L không? Chưa được xác minh thu thập chứng cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi ngiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án; lời trình bày của đương sự được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Chu Thành L và đại diện UBND huyện D tại phiên tòa vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt; Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương đương sự. Tại phiên tòa các đương sự đều xác nhận ông Chu Lư và ông Chu Văn L là một người; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1996 cho hộ ông Chu Lư là tài sản chung của ông Chu Văn và bà Trần Thị L.
Về nội dung: Ông Chu Văn L đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Chu Thành L và chị Võ Thị H quyền sử dụng 342m2 đất tại thửa số 766, tờ bản đồ số 106-59 ở xóm 5 xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. Hình thức là hợp đồng chuyển nhượng nhưng anh Long và chị Hằng không phải trả tiền cho ông Chu Văn L. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được chứng thực tại UBND xã D vào ngày 24/4/2007. Trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng này UBND huyện D đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 983957 ngày 15/7/2008 cho vợ chồng anh Chu Thành L và chị Võ Thị H tại thửa số 1083, tờ bản đồ 106-59, có diện tích 342m2 tại xóm 5, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An.
Tại phiên tòa bà Trần Thị L, chị Võ Thị H và ông Chu Văn L thừa nhận thửa số 766, tờ bản đồ số 106-59 diện tích 848m2 ở xóm 5 xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An là tài sản chung của ông Chu Văn L và bà Trần Thị L, khi lập hợp đồng chuyển nhượng cho anh Long và chị Hằng chỉ có ông Chu Văn L ký là không phù hợp với quy định của pháp luật, nên đề nghị Tòa án chấp nhận sự thỏa thuận. Xét thấy sự thỏa thuận của bà Loan,ông Lư, chị Hằng là tự nguyên, nhưng anh Long vắng mặt nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Loan để tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được UBND xã D chứng thực ngày 24/4/2007 giữa ông Chu Văn L và anh Chu Thành L chị Võ Thị H là vô hiệu. Hợp đồng bị vô hiệu do lỗi của cả hai bên nhưng không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng. Đối với những tài sản và công trình xây dựng trên đất của vợ chồng anh Chu Thành L và chị Võ Thị H đã xây dựng trên đất từ 2005 các đương sự đều thống nhất tự giải quyết, nếu có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác, cho nên Hội đồng xét xử không giải quyết hậu quả của hợp đồng này.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu nên cần chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị L là hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 983957 ngày 15/07/2008 mang tên anh Chu Thành L và chị Võ Thị H của Ủy ban nhân dân huyện D.
Về án phí: Bà Trần Thị L thỏa thuận chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và án phí sơ thẩm hủy quyết định cá biệt.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Các Điều 122, 137, 697 Bộ luật dân sự 2005; Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L.
Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 342m2, thửa đất số 1083, tờ bản đồ số 106-59 tại xóm 5, xã D, huyện D giữa ông Chu Văn L và vợ chồng anh Chu Thành L và chị Võ Thị H được Ủy ban nhân dân xã D chứng thực vào ngày 24/4/2007 là vô hiệu.
Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 983957 ngày 15/7/2008mang tên anh Chu Thành L và chị Võ Thị H của Ủy ban nhân dân huyện D.
Về án phí: Bà Trần Thị L thỏa thuận chịu 300.000đ án phí sơ thẩm dân sự và 300.000đ án phí sơ thẩm hủy quyết định cá biệt, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nạp theo biên lai thu tiền số 000698 ngày 16/01/2017 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.
Tuyên bố cho bà Trần Thị L, ông Chu Văn L, chị Võ Thị H được biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Anh Chu Thành L và ông Phan Huy Cường có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản sao bản án./.
Bản án 01/2017/DS-ST ngày 11/04/2017 về yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và hủy quyết định cá biệt
Số hiệu: | 01/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 11/04/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về