TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 01/2016/HC-ST NGÀY 22/04/2016 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 22 tháng 4 năm 2016, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 04/2015/TLST-HC ngày 17/11/2015 về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai”; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2016/QĐST-HC ngày 04/3/2016; Thông báo hoãn phiên tòa số 01/TB-HPT ngày 23/3/2016, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Hồ L- Sinh năm 1959.
Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB, tỉnh Bình Thuận. Cùng địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện HTB, tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H:
Ông Lê Ngọc B- Chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H. Theo Quyết định v/v ủy quyền tham gia tố tụng vụ kiện hành chính do ông Hồ L, thôn P, xã H, huyện HTB khởi kiện số: 02/QĐ-UBND ngày 13/01/2016.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị D- Sinh năm 1966. Địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện HTB, tỉnh Bình Thuận.
Đương sự có mặt tại phiên tòa: Ông Hồ L, ông Lê Ngọc B, bà Trần Thị D.
NHẬN THẤY
Trong đơn khởi kiện ngày 18/10/2015, đơn khởi kiện bổ sung ngày 09/11/2015, bản khai của người khởi kiện ông Hồ L; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị D khai:
Chúng tôi là vợ chồng. Ngày 08/4/2015, Ủy ban nhân dân xã H ban hành Quyết định số: 58/QĐ-KPHQ về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính đối với ông là không phù hợp với thực tế là trái với quy định của pháp luật. Do xã H tự áp đặt cho ông hành vi trái pháp luật mà không do ông gây ra nên ông có đơn khiếu nại đề ngày 06/7/2015 đồng thời yêu cầu hủy quyết định này.
Ngày 01/10/2015, ông nhận được Quyết định số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015 của Ủy ban nhân dân xã H giải quyết khiếu nại lần đầu đối với ông với nội dung là không chấp nhận nội dung khiếu nại của ông. Quyết định này chưa phù hợp với pháp luật và đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của gia đình ông với lý do: Từ trước đến nay không có con đường đi chung nào của nhiều hộ dân sử dụng mà con đường này chỉ có ông và gia đình ông sử dụng từ năm 1987 cho đến nay. Ngày 03/4/2015, Ủy ban nhân dân xã H tự lập biên bản vi phạm hành chính số 01 mà ông không biết vì ông, gia đình ông không vi phạm như nội dung biên bản mà xã đã lập, như vậy họ tự viết tự ký tên với nhau cho rằng ông vi phạm nhưng không ký vào biên bản là hoàn toàn vô lý.
Ngày 14/12/2010, Ủy ban nhân dân xã H tiến hành hòa giải tranh chấp giữa ông và ông Văn Sĩ N thì ông Văn Sĩ N cho rằng: “Con đường đi vào nhà ông L là bờ ruộng của tôi, tôi cho ông L đắp đường vào nhà đi lại, không phải đường nội đồng, trước kia nhỏ, bây giờ xe hơi vào được” và đến năm 2012 ông Văn Sĩ N làm đơn khởi kiện ông ra Tòa án với nội dung ông lấn chiếm đất đường đi của ông N để xây dựng sân bê tông đến năm 2013 sau khi đã xác minh và trao đổi với Ủy ban nhân dân huyện HTB thì Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Trong biên bản vi phạm hành chính ngày 29/8/2013 do Ủy ban nhân dân xã H lập có nội dung vào năm 2004 ông Hồ L tự ý xây dựng sân bê tông lấn chiếm đường đi của tập thể (nay thay đổi là con đường đi nội đồng) với diện tích vi phạm là 293m2, tháng 6/2013 ông Hồ L tự ý xây dựng chuồng bò, trụ cây, rào cây giăng lưới mùng, mái tol, xây dựng trên nền chuồng bò cũ nằm trên diện tích con đường lấn chiếm 293m2 nhưng năm 2015 thì Ủy ban nhân dân xã lại cho rằng năm 2004 ông chiếm đất tự ý xây dựng sân bê tông với diện tích 83m2 trên phần đất 254m2, năm 2011 lấn chiếm 171m2 để trồng 12 trụ thanh long. Như vậy theo Ủy ban nhân dân xã H thì năm 2004 ông lấn chiếm đất làm sân bê tông sau đó phá bỏ sân bê tông để trồng 12 trụ thanh long và cũng trên đất này ông lại lấn chiếm để xây dựng chuồng bò việc này là quá vô lý. Thực tế là ông trồng thanh long và xây sân bê tông trên đất thuộc quyền sử dụng của ông vì ông sử dụng từ trước ngày 15/10/1993 phù hợp với Điều 50 Luật Đất đai năm 1993.
Ông khẳng định ông không vi phạm Điểm a, Khoản 1, Điều 9 Nghị định 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ mà Quyết định số: 58/UBND-NC của Ủy ban nhân dân xã áp dụng. Diện tích đất của ông đã được Ủy ban nhân dân huyện HTB cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 937255 ngày 28/10/1999 và số T 135908 ngày 30/8/2001 trong đó con đường đi từ nhà ra đường của ông được ghi nhận rất rõ tại sơ đồ vị trí khu đất cất nhà ở lâu dài thì không thể cho rằng năm 2004 ông lấn chiếm đường đi nội đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc ông phải trả lại con đường nội đồng là trái pháp luật quy định và hết sức vô lý.
Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số: 151/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân xã H có nội dung: “Trước năm 1987 ông Văn Sĩ N và ông Hồ L đến khai hoang để sản xuất và làm nhà ở. Trong quá trình sử dụng thì giữa phần đất của ông Văn Sĩ N và ông Hồ L có phần đất trống (tiếp giáp đất ông N và ông L không sản xuất đo đạc được 293m2. Phần đất này ông Văn Sĩ N và ông Hồ L và các hộ sản xuất bên trong dùng để vận chuyển nông sản phục vụ cho việc sản xuất…” theo nội dung trên thì Ủy ban nhân dân xã H cho rằng diện tích đất này là thuộc quyền sử dụng chung của ông và ông Văn Sỹ N chứ không phải là đất công cộng. Nếu đây là đường đi công cộng mà ông chiếm thì tại sao từ năm 2004 đến nay các hộ sản xuất bên trong không có khiếu nại gì. Ông Hồ L yêu cầu hủy:
- Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H;
- Quyết định về việc giải quyết khiếu nại của ông Hồ L (lần đầu) số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H.
Ý kiến của người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H do ông Lê Ngọc B- Phó Chủ tịch đại diện theo ủy quyền: Tháng 11/2011, Ủy ban nhân dân xã H nhận hồ sơ hòa giải tranh chấp đất đai giữa ông Văn Sĩ N với ông Hồ L do tổ hòa giải thôn P chuyển đến. Nội dung đơn ông Văn Sĩ N tranh chấp đất đai với ông Hồ L, đơn đề ngày 16/11/2011. Ông Văn Sĩ N cho rằng ông Hồ L tự ý lấn đường, ranh đất và chặt phá me của ông. Cùng thời gian này, ông Hồ L có gửi đơn kiến nghị đến Ủy ban nhân dân xã H, đơn đề ngày 08/12/2011, ông L cho rằng: ông Văn Sĩ N khiếu nại ông L lấn bờ chung và con đường đi là không đúng và cho rằng con đường đang tranh chấp này là do vợ chồng ông tự đắp lên để đi lại.
Ngày 29/3/2012, Ủy ban nhân dân xã H tổ chức hòa giải vụ việc theo quy định. Qua buổi hòa giải hai bên thống nhất đo đạc lại diện tích nếu bên nào vi phạm thì sẽ có trách nhiệm khôi phục lại phần diện tích đã lấn chiếm. Để giải quyết dứt điểm vụ việc, ngày 28/5/2012 Ủy ban nhân dân xã mời hai bên đương sự về tiếp tục hòa giải theo quy định, qua đó ông Hồ L không thống nhất và cho rằng con đường này là do gia đình ông Hồ L tự đắp lên chứ không phải đường tập thể.
Để giải quyết dứt điểm vụ việc ngày 11/6/2012, Ủy ban nhân dân xã H ban hành Báo cáo số: 42/BC-UBND, về việc chuyển hồ sơ tranh chấp đất đai cho Ủy ban nhân dân huyện HTB xem xét giải quyết và chỉ đạo tiếp theo.
Đồng thời, ngày 30/7/2013 một số hộ dân sản xuất tại khu vực này gửi đơn đến Ủy ban nhân dân huyện HTB, khiếu nại ông Hồ L lấn chiếm đất đường đi của nhân dân. Ngày 14/8/2013 Ủy ban nhân dân huyện HTB ban hành Công văn số: 1713/UBND-NC gửi cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, về việc giải quyết đơn của các hộ dân xã H và xã Đ.
Ngày 29/8/2013, Ủy ban nhân dân xã H tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai đối với ông Hồ L và ban hành Quyết định số: 70/QĐ-XPHC ngày 03/9/2013, về việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Ngày 12/9/2013, Ủy ban nhân dân xã H nhận được Công văn chỉ đạo của Ủy ban nhân dân huyện HTB tại Công văn số: 1961/UBND-NC ngày 11/9/2013, về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ L. Ngày 07/10/2013, UBND xã H ban hành Quyết định số: 129/QĐ-UBND, về việc giải quyết khiếu nại của ông Hồ L (lần đầu).
Trong quá trình xem xét vụ việc, ngày 23/4/2014, Ủy ban nhân dân huyện HTB ban hành Công văn số: 824/UBND-NC, về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ L, công dân xã H. Chấp hành theo sự chỉ đạo trên, ngày 21/5/2014, Ủy ban nhân dân xã H ban hành Quyết định số: 75/QĐ-UBND, về việc hủy quyết định xử lý vi phạm hành chính và quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Đồng thời, mời hộ ông Hồ L đến để giao cho hộ quyết định trên. Qua đó, ngày 05/6/2014 và ngày 20/6/2014 Ủy ban nhân dân xã H tiến hành hòa giải hai bên theo quy định.
Ngày 02/7/2014, Ủy ban nhân dân xã H báo cáo vụ việc trên cho Ủy ban nhân dân huyện HTB tại Báo cáo số: 71/BC-UBND.
Ngày 26/11/2014, Ủy ban nhân dân huyện HTB có Công văn chỉ đạo số: 2692/UBND-NC, về việc giải quyết đơn kiến nghị của công dân. Chấp hành theo sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân huyện. Ngày 07/01/2015, Ủy ban nhân dân xã H mời hộ ông Hồ L về vận động, thuyết phục nhưng ông Hồ L và gia đình nhất quyết không đồng ý. Ngày 03/4/2015, Ủy ban nhân dân xã H tiến hành lập Biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai đối với ông Hồ L. Đồng thời, ban hành Quyết định số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015. Trong quá trình thực hiện ngày 03/6/2015, Ủy ban nhân dân xã H báo cáo vụ việc trên cho Ủy ban nhân dân huyện HTB tại Báo cáo số: 63/BC-UBND. Đến ngày 10/7/2015 ông Hồ L gửi đơn khiếu nại về việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H ban hành Quyết định số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015, về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra Quyết định xử phạt hành chính đối với ông không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi gia đình ông cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện HTB. Căn cứ Luật khiếu nại, Nghị định số: 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khiếu nại. Đơn khiếu nại của ông không thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân huyện HTB. Ngày 14/7/2015, Ủy ban nhân dân xã H có nhận đơn khiếu nại của ông Hồ L về vụ việc trên. Theo đó, Ủy ban nhân dân xã tiến hành thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Ủy ban nhân dân huyện HTB ban hành Công văn số: 1502/UBND-NC ngày 27/7/2015, đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H giải quyết theo thẩm quyền. Bên cạnh đó, ngày 27/7/2015 Ủy ban nhân dân huyện HTB ban hành Công văn: 1493/UBND-NC, về việc tổ chức vận động ông Hồ L chấp hành Quyết định khắc phục hậu quả, khôi phục lại đường đi.
Căn cứ theo tinh thần của hai Công văn trên, Ủy ban nhân dân xã H có xin ý kiến của lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện để thực hiện. Ủy ban nhân dân chỉ đạo tiến hành giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ L theo thẩm quyền về việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H ban hành Quyết định số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015, về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính đối với ông không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi gia đình ông.
Từ cơ sở trên, theo quy định của pháp luật Ủy ban nhân dân xã H tiến hành giải quyết đơn khiếu nại của ông Hồ L theo đúng trình tự. Ngày 16/9/2015, Ủy ban nhân dân xã H ban hành Quyết định số: 151/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại của ông Hồ L (lần đầu).
Vì những lý do trên, Ủy ban nhân dân xã H không chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H; Quyết định về việc giải quyết khiếu nại của ông Hồ L (lần đầu) số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H.
Tại phiên tòa, người bị kiện đồng ý theo yêu cầu của người khởi kiện và rút Quyết định số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015, Quyết định số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H. Người khởi kiện không rút đơn khởi kiện.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng hành chính trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:
Đây là vụ án khiếu kiện quyết định hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB trên lĩnh vực quản lý đất đai về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 29 Luật Tố tụng Hành chính.
Ông Hồ L khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015, Quyết định số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015 giải quyết khiếu nại của ông Hồ L (lần đầu) của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến của người khởi kiện; người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thấy rằng: Ngày 12/10/2012 Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc thụ lý vụ án: “Tranh chấp về quyền sử dụng đất (đường đi, đường bờ)” giữa nguyên đơn là ông Văn Sĩ N, bị đơn là ông Hồ L. Ông Văn Sĩ N yêu cầu ông Hồ L phải giao trả con đường đi diện tích 293m2. Ngày 26/7/2013 Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc đình chỉ giải quyết vụ án tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số: 14/2013/QĐST-DS và quyết định này có hiệu lực pháp luật. Ngày 03/4/2015 Ủy ban nhân dân xã H lập Biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai đối với ông Hồ L. Phần đầu biên bản không có Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã tham gia nhưng ký tên đóng dấu trong biên bản, biên bản lập chỉ 01 bản, không ghi lý do người vi phạm không ký biên bản, không giao cho cá nhân vi phạm 01 bản như nội dung biên bản là không đúng quy định của pháp luật.
Mặc khác, bà Trần Thị D là vợ của ông Hồ L mà Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015 có nội dung: Buộc ông Hồ L phải khôi phục lại tình trạng ban đầu của con đường đi trước khi vi phạm với diện tích 293m2, trên diện tích 293m2 có 83m2 sân bê tông, 12 trụ thanh long. Đây là tài sản chung của vợ chồng ông Hồ L, bà Trần Thị D mà Biên bản vi phạm hành chính số: 01/BB-VPHC ngày 03/4/2015 cũng như quyết định hành chính số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015 không có tên bà Trần Thị D là chưa bảo đảm về quyền lợi, nghĩa vụ của bà Trần Thị D.
Từ những phân tích trên, căn cứ vào ý kiến của người bị kiện tại phiên tòa là rút Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015, Quyết định số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015 giải quyết khiếu nại của ông Hồ L (lần đầu) của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút quyết định hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB. Như vậy, đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính này là 02 Quyết định số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015, Quyết định số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015 không còn mà người khởi kiện ông Hồ L không rút đơn khởi kiện nên Hội đồng xét xử bác đơn khởi kiện của ông Hồ L về việc yêu cầu hủy 02 Quyết định số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015, Quyết định số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015.
Ông Hồ L phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB, tỉnh Bình Thuận không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bà Trần Thị D không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1/ Áp dụng: Điểm a Khoản 1 Điều 163, Điều 164 Luật Tố tụng hành chính.
Tuyên xử: - Chấp nhận việc rút quyết định hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB, về việc rút Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015; rút Quyết định số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015 giải quyết khiếu nại của ông Hồ L (lần đầu) của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB.
- Bác đơn khởi kiện của ông Hồ L về việc yêu cầu hủy Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong trường hợp không ra quyết định xử phạt hành chính số: 58/QĐ-KPHQ ngày 08/4/2015; Quyết định số: 151/QĐ-UBND ngày 16/9/2015 giải quyết khiếu nại của ông Hồ L (lần đầu) của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB.
2/ Áp dụng: Điều 31, 34 Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009.
Về án phí:
- Ông Hồ L phải chịu 200.000đồng án phí hành chính sơ thẩm, đã nộp đủ 200.000đồng tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004337 ngày 17/11/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc nên không phải nộp nữa.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện HTB, tỉnh Bình Thuận không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
- Bà Trần Thị D không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 22/4/2016).
Bản án 01/2016/HC-ST ngày 22/04/2016 về khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai
Số hiệu: | 01/2016/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 22/04/2016 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về