Bản ám 02/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁM 02/2023/HS-ST NGÀY 09/01/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 09 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 102/2022/TLST-HS, ngày 18 tháng 11 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Quốc C; giới tính: Nam; sinh năm: 1990, tại tỉnh: B. Nơi cư trú: Thôn 7, xã B, huyện Đ, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn:

10/12. Con ông Đoàn Phúc H và bà Phạm Thị T. Bị cáo có 02 em ruột sinh năm 1993 và 2003. Bị cáo có một người con sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 12/7/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1956 (có mặt) Địa chỉ: Thôn 7, xã B, huyện B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 29/01/2022, ông Nguyễn Văn N điều khiển xe môtô (không rõ biển số) chở vợ là bà Trần Thị Kim C1 đi ngang qua nhà bà Phạm Thị T thuộc thôn 7, xã B, huyện Đ, tỉnh B thì bị bà T từ trong nhà chạy ra chặn đầu xe, yêu cầu vợ chồng ông N đóng tiền làm đường bê tông trong thôn. Trong lúc nói chuyện, giữa bà T và ông N xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Lúc này, Đoàn Quốc C (con trai bà T) từ trong nhà chạy ra nhặt 01 đoạn cây củi điều dài khoảng 1,5 mét xông đến đánh một cái theo hướng từ trên xuống về phía ông N. Ông N đưa tay trái lên đỡ thì bị trúng vào cẳng tay gây thương tích, cây củi điều cũng bị gãy làm đôi. C sau đó bỏ đi về còn ông N đi điều trị tại Bệnh viện Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 133/2022/TgT ngày 12/4/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh B kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn N do thương tích gây nên hiện tại là 01% Tại bản cáo trạng số: 99/CTr –VKS ngày 16/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Đoàn Quốc C về “Tội cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Đoàn Quốc C khai nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra, bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh B công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Đoàn Quốc C. Sau khi phân tích toàn bộ tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bị cáo Đoàn Quốc C phạm “Tội cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của BLHS, xử phạt bị cáo Đoàn Quốc C từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

+ Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người bị hại ông N yêu cầu bị cáo C phải bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 20.000.000đ, bị cáo C đồng ý bồi thường cho ông N số tiền 20.000.000đ. Vì vậy, buộc bị cáo Đoàn Quốc C phải bồi thường cho người bị hại ông Nguyễn Văn N số tiền là 20.000.000đ.

+ Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn cây củi điều dài khoảng 40cm, đường kính đầu lớn 05cm, đầu nhỏ 04cm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với bản luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh B. Những người tham gia tố tụng không tranh luận gì. Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Đ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo trình bày nội dung là hoàn toàn tự nguyện. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đoàn Quốc C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, qua lời khai nhận tội của bị cáo đối chiếu với lời khai của bị hại cùng các tài liệu trong hồ sơ vụ án là phù hợp. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 18 giờ ngày 29/01/2022, ông Nguyễn Văn N điều khiển xe môtô (không rõ biển số) chở vợ là bà Trần Thị Kim C1 đi ngang qua nhà bà Phạm Thị T thuộc thôn 7, xã B, huyện Đ, tỉnh B thì bị bà T từ trong nhà chạy ra chặn đầu xe, yêu cầu vợ chồng ông N đóng tiền làm đường bê tông trong thôn. Trong lúc nói chuyện, giữa bà T và ông N xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Lúc này, Đoàn Quốc C (con trai bà T) từ trong nhà chạy ra nhặt 01 đoạn cây củi điều dài khoảng 1,5 mét xông đến đánh một cái theo hướng từ trên xuống về phía ông N. Ông N đưa tay trái lên đỡ thì bị trúng vào cẳng tay gây thương tích, cây củi điều cũng bị gãy làm đôi. C sau đó bỏ đi về còn ông N đi điều trị tại Bệnh viện Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 133/2022/TgT ngày 12/4/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh B kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn N do thương tích gây nên hiện tại là 01%.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác, đây là quyền về nhân thân được pháp luật bảo vệ. Do đó, cần xét xử bị cáo mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có con còn nhỏ, hoàn cảnh khó khăn, cần áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án thật nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có con còn nhỏ, hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa người bị hại với bị cáo, cụ thể bị cáo Đoàn Quốc C phải có nghĩa vụ bồi thường cho người bị hại ông Nguyễn Văn N số tiền là 20.000.000đ.

[6] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn cây củi điều dài khoảng 40cm, đường kính đầu lớn 05cm, đầu nhỏ 04cm (đã khô)

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tham gia phiên tòa là phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Đoàn Quốc C phạm “Tội cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134 điểm i,s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đoàn Quốc C 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Đoàn Quốc C phải có nghĩa vụ bồi thường cho người bị hại ông Nguyễn Văn N số tiền là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

3. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn cây củi điều dài khoảng 40cm, đường kính đầu lớn 05cm, đầu nhỏ 04cm (đã khô) (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0009982, ngày 25/11/2022 giữa cơ quan Công an huyện Đ với Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Đoàn Quốc C phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản ám 02/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;