Top đoạn văn nghị luận về hiện tượng học vẹt học tủ hay nhất? Yêu cầu về đánh giá hình thức môn Ngữ văn lớp 9 ra sao?
Top đoạn văn nghị luận về hiện tượng học vẹt học tủ hay nhất?
Hiện tượng học vẹt, học tủ là một vấn nạn đã tồn tại từ lâu trong môi trường học đường. Thay vì tìm hiểu, khám phá kiến thức một cách chủ động, nhiều học sinh lại chọn cách học thuộc lòng máy móc, chỉ tập trung vào những phần kiến thức được cho là sẽ xuất hiện trong bài kiểm tra. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng học tập mà còn hạn chế sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân.
Học vẹt là việc học thuộc lòng những kiến thức một cách máy móc, không hiểu sâu sắc về bản chất vấn đề. Những người học vẹt thường chỉ nhớ được một cách tạm thời và dễ dàng quên lãng sau khi kiểm tra. Học tủ còn tệ hại hơn, khi người học chỉ tập trung vào một phần nhỏ kiến thức mà họ cho là quan trọng, bỏ qua những phần còn lại. Cách học này mang tính may rủi rất cao và thường không đem lại hiệu quả lâu dài.
Viết đoạn văn nghị luận về hiện tượng học vẹt học tủ đã được các bạn học sinh thực hành viết trong chương trình môn Ngữ văn lớp 9.
Các bạn học sinh có thể tham khảo top đoạn văn nghị luận về hiện tượng học vẹt học tủ hay nhất dưới đây.
Top đoạn văn nghị luận về hiện tượng học vẹt học tủ hay nhất? Đoạn 1: Trong bối cảnh giáo dục hiện nay, hiện tượng "học vẹt" và "học tủ" đang trở nên phổ biến trong các kỳ thi. "Học vẹt" là việc học thuộc lòng mà không hiểu bản chất, còn "học tủ" là việc học chỉ một phần kiến thức mà bỏ qua các phần còn lại. Những phương pháp học này mặc dù giúp học sinh đạt điểm cao trong kỳ thi, nhưng lại không giúp học sinh phát triển tư duy, kỹ năng sáng tạo, và khả năng giải quyết vấn đề. Một ví dụ rõ ràng là khi học sinh chỉ chăm chú học những phần kiến thức có khả năng ra trong đề thi, bỏ qua những phần kiến thức khác, khiến cho việc học chỉ mang tính hình thức. Điều này gây ra sự thiếu hụt về kiến thức nền tảng và khả năng vận dụng thực tế. Học sinh không có sự liên kết chặt chẽ giữa các kiến thức, điều này khiến cho việc học trở nên khô khan, thiếu tính sáng tạo. Hơn nữa, việc học theo kiểu này làm giảm động lực học tập lâu dài, vì học sinh chỉ mong muốn đạt điểm số mà không quan tâm đến việc hiểu sâu kiến thức. Đoạn 2: Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng "học vẹt" và "học tủ" chính là sự áp lực trong giáo dục. Từ khi còn nhỏ, học sinh đã bị ràng buộc bởi những kỳ thi sát hạch và các tiêu chuẩn đánh giá nghiêm ngặt về điểm số. Các kỳ thi này không đánh giá khả năng tư duy sáng tạo hay khả năng giải quyết vấn đề mà chỉ tập trung vào việc học thuộc lòng kiến thức. Thêm vào đó, nhiều bậc phụ huynh và giáo viên cũng chỉ chú trọng đến kết quả thi cử, xem điểm số là thước đo duy nhất cho sự thành công. Chính vì vậy, học sinh cảm thấy rằng chỉ cần học thuộc những kiến thức có thể thi vào là đủ, còn việc tìm hiểu sâu, mở rộng kiến thức thì không cần thiết. Đây là một vòng luẩn quẩn trong hệ thống giáo dục, khi học sinh chỉ tập trung vào những gì sẽ xuất hiện trong bài kiểm tra mà bỏ qua những kỹ năng học tập lâu dài như tư duy phản biện hay khả năng sáng tạo. Đoạn 3: Hiện tượng "học vẹt" và "học tủ" không chỉ tồn tại trong các môn học có tính chất lý thuyết mà còn ở các môn học khác như toán, lý, hóa. Mặc dù các môn học này yêu cầu học sinh phải nắm vững kiến thức cơ bản, nhưng việc học một cách máy móc mà không hiểu bản chất vấn đề khiến cho học sinh không thể áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Ví dụ, trong môn toán, nếu học sinh chỉ học thuộc các công thức mà không hiểu nguyên lý, khi gặp bài toán lạ, họ sẽ không thể giải quyết được. Trong khi đó, học sinh có khả năng tư duy và vận dụng kiến thức sẽ dễ dàng tìm ra cách giải quyết những vấn đề phức tạp. Bởi vậy, "học vẹt" và "học tủ" không chỉ làm mất đi khả năng sáng tạo mà còn làm giảm đi khả năng áp dụng kiến thức vào thực tế. Đây là một hạn chế lớn trong việc phát triển tư duy của học sinh, gây khó khăn trong việc học các môn học nâng cao. Đoạn 4: Giải pháp để khắc phục tình trạng "học vẹt" và "học tủ" đòi hỏi sự thay đổi từ cả hệ thống giáo dục và các bên liên quan. Trước hết, cần thay đổi phương pháp giảng dạy từ truyền thụ kiến thức một chiều sang phương pháp kích thích tư duy sáng tạo, khuyến khích học sinh đặt câu hỏi và thảo luận. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ bản chất của kiến thức, giúp họ nhìn thấy mối liên hệ giữa các môn học và thực tiễn. Bên cạnh đó, các kỳ thi cần được thiết kế sao cho không chỉ kiểm tra khả năng nhớ kiến thức mà còn đánh giá khả năng áp dụng và tư duy sáng tạo của học sinh. Việc áp dụng hình thức đánh giá như thi vấn đáp, bài thuyết trình hay dự án nhóm sẽ giúp học sinh phát triển toàn diện hơn. Cuối cùng, gia đình và xã hội cũng cần có cái nhìn đúng đắn về giáo dục, khuyến khích việc học không chỉ để lấy điểm mà là để phát triển bản thân và tạo nền tảng vững chắc cho tương lai. Đoạn 5: Một trong những hệ quả nghiêm trọng của việc "học vẹt" và "học tủ" là sự thiếu hụt kỹ năng mềm và khả năng tự học của học sinh. Khi học sinh chỉ học thuộc mà không hiểu, họ sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn, trong khi kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm lại rất quan trọng trong công việc và cuộc sống. Điều này cũng đồng nghĩa với việc học sinh không phát triển được khả năng tự học, một yếu tố quan trọng trong quá trình học tập suốt đời. Học sinh chỉ phụ thuộc vào giáo viên và sách vở mà không có khả năng tìm kiếm và khai thác thông tin từ các nguồn khác nhau. Nếu hiện tượng này kéo dài, học sinh sẽ gặp phải khó khăn lớn trong việc thích nghi với những thay đổi trong xã hội và công nghệ. Vì vậy, việc thay đổi phương pháp học tập và hướng dẫn học sinh phát triển tư duy độc lập là rất cần thiết để tạo ra những công dân có khả năng sáng tạo và giải quyết vấn đề trong môi trường hiện đại. |
*Lưu ý: Thông tin về top đoạn văn nghị luận về hiện tượng học vẹt học tủ hay nhất chỉ mang tính chất tham khảo./.
Top đoạn văn nghị luận về hiện tượng học vẹt học tủ hay nhất? Yêu cầu về đánh giá hình thức môn Ngữ văn lớp 9 ra sao? (Hình từ Internet)
Yêu cầu về đánh giá hình thức môn Ngữ văn lớp 9 ra sao?
Căn cứ khoản 3 Điều 5 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT quy định yêu cầu về hình thức đánh giá đối với môn Ngữ văn lớp 9 như sau:
Hình thức đánh giá
...
3. Hình thức đánh giá đối với các môn học
a) Đánh giá bằng nhận xét đối với các môn học: Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp; kết quả học tập theo môn học được đánh giá bằng nhận xét theo 01 (một) trong 02 (hai) mức: Đạt, Chưa đạt.
b) Đánh giá bằng nhận xét kết hợp đánh giá bằng điểm số đối với các môn học trong Chương trình giáo dục phổ thông, trừ các môn học quy định tại điểm a khoản này; kết quả học tập theo môn học được đánh giá bằng điểm số theo thang điểm 10, nếu sử dụng thang điểm khác thì phải quy đổi về thang điểm 10. Điểm đánh giá là số nguyên hoặc số thập phân được lấy đến chữ số thập phân thứ nhất sau khi làm tròn số.
Từ quy định trên, có thể thấy môn Ngữ văn lớp 9 thuộc Chương trình giáo dục phổ thông nên được đánh giá bằng hình thức đánh giá nhận xét kết hợp đánh giá bằng điểm số.
Ngoài ra, kết quả học tập môn Ngữ văn sẽ được đánh giá bằng điểm số theo thang điểm 10, nếu sử dụng thang điểm khác thì phải quy đổi về thang điểm 10.
Khi nào học sinh lớp 9 phải rèn luyện trong kỳ nghỉ hè?
Theo quy định tại Điều 13 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT thì việc rèn luyện trong kỳ nghỉ hè được thực hiện như sau:
Rèn luyện trong kì nghỉ hè
1. Học sinh có kết quả rèn luyện cả năm học được đánh giá mức Chưa đạt thì phải rèn luyện trong kì nghỉ hè.
2. Hình thức rèn luyện trong kì nghỉ hè do Hiệu trưởng quy định.
3. Căn cứ vào hình thức rèn luyện trong kì nghỉ hè, giáo viên chủ nhiệm giao nhiệm vụ rèn luyện trong kì nghỉ hè cho học sinh và thông báo đến cha mẹ học sinh. Cuối kì nghỉ hè, nếu nhiệm vụ rèn luyện được giáo viên chủ nhiệm đánh giá đã hoàn thành (có báo cáo về quá trình và kết quả thực hiện nhiệm vụ rèn luyện có chữ kí xác nhận của cha mẹ học sinh) thì giáo viên chủ nhiệm đề nghị Hiệu trưởng cho đánh giá lại kết quả rèn luyện cả năm học của học sinh. Kết quả đánh giá lại được sử dụng thay thế cho kết quả rèn luyện cả năm học để xét lên lớp theo quy định tại Điều 12 Thông tư này.
Như vậy, việc rèn luyện trong kỳ nghỉ hè được thực hiện khi học sinh có kết quả rèn luyện cả năm học được đánh giá mức Chưa đạt.
- Hướng dẫn tổ chức giờ ăn đối với học sinh tiểu học?
- Điều kiện giáo viên nước ngoài dạy ngoại ngữ trong trường mầm non?
- Hướng dẫn xử lý khi xảy ra bạo lực học đường?
- Vì sao nói Công xã Paris là nhà nước kiểu mới? Lớp học Lịch sử của học sinh lớp 8 được tổ chức thế nào?
- Mẫu văn tả chú bộ đội lớp 5 ngắn gọn hay nhất? Hoạt động trải nghiệm cấp tiểu học lớp 5 như thế nào?
- Top các mẫu đoạn văn về một nhân vật em yêu thích trong câu chuyện đã đọc, đã nghe? Học sinh lớp 3 được quyền chọn trường học không?
- Top 10 Mẫu viết đoạn văn về một cảnh đẹp thiên nhiên trong đó có sử dụng biện pháp tu từ so sánh hoặc ẩn dụ hay nhất?
- Mẫu viết đoạn văn khoảng 200 chữ ghi lại cảm xúc về bài thơ Mẹ môn Ngữ văn lớp 7? Việc đánh giá học sinh lớp 7 có mục đích là gì?
- Trọn bộ đề thi cuối kì 1 Văn 11 kèm đáp án? Trường THPT chuyên được ưu tiên những gì để bảo đảm chất lượng giáo dục?
- Công dân học tập vn đăng nhập hướng dẫn chi tiết? Kinh phí thực hiện xây dựng mô hình Công dân học tập giai đoạn 2021 2030?