Mẫu văn bản nghị luận phân tích đánh giá một bài thơ lớp 10? Có bao nhiêu môn học được dạy trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp THPT?
Mẫu văn bản nghị luận phân tích đánh giá một bài thơ lớp 10?
Phân tích đánh giá một bài thơ là một trong những yêu cầu quan trọng trong học tập môn Ngữ văn, giúp học sinh hiểu sâu hơn về nội dung, nghệ thuật và giá trị tư tưởng mà tác phẩm mang lại. Dưới đây là mẫu văn bản nghị luận phân tích đánh giá một bài thơ mà học sinh có thể tham khảo.
Nghị luận phân tích đánh giá một bài thơ - Mẫu số 1:
Bài thơ “Rằm tháng giêng” được Bác Hồ viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng mà còn thể hiện được tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm cũng như tấm lòng yêu nước sâu nặng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng trong đêm tại chiến khu Việt Bắc: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên” (Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất) Hình ảnh ánh trăng vào đêm rằm tháng giêng được nhà thơ miêu tả là “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Ánh trăng lúc này dường như bao phủ khắp núi rừng Việt Bắc khiến cho cảnh vật trở nên ấm áp hơn. Đến câu thơ tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên lại càng đẹp hơn: “Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên” (Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân) Ba từ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Như vậy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng tràn đầy sức sống. Đến hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người đã xuất hiện với một công việc thật cao cả: “Yên ba thâm sứ đàm quân sự” (Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân) Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo. Chính vì vậy, Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân, đó là những công việc quan trọng liên quan đến vận mệnh của quốc gia dân tộc. Và cuối cùng, bài thơ kết lại bằng một câu thơ: “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” (Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền) Phải chăng vì quá say sưa bàn bạc việc quân việc nước, mà khi trở về thì đêm đã về khuya? Lúc này ánh trăng cũng sáng rõ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Qua đó, Bác Hồ muốn thể hiện khát vọng thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với hai câu thơ sau, người đọc như thấy được một phong thái ung dung, lạc quan và lòng tin bất diệt của Người vào sự nghiệp giải phóng dân tộc nhất định sẽ thắng lợi. “Rằm tháng giêng” là bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được khắc họa bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trong thơ xưa như ánh trăng, sông nước, trời đất, con thuyền. Cùng với việc kết hợp biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả được bức tranh đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc thật sinh động. Qua bài thơ trên, ta không chỉ thấy được một tâm hồn thi sĩ đa sầu đa cảm mà còn là con người kiên cường và trung thành với cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh. |
Nghị luận phân tích đánh giá một bài thơ - Mẫu số 2:
Mùa thu, cái mùa làm xao xuyến lòng người gợi cho ta bao hoài niệm. Mùa thu giấu trong mình những bầu trời xanh cao vợi, cái nắng hanh vàng, chút se lạnh về đêm. Vì mùa thu đẹp quá nên nó đã trở thành chất liệu thi ca của biết bao nhà văn nhà thơ trong đó có Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Mùa thu qua cảm nhận của Lưu Trọng Lư thật khác biệt. Ông không dùng mắt để quan sát vẻ đẹp tuyệt diệu của mùa thu mà ông lắng nghe từng hơi thở, từng âm thanh của mùa thu. Mùa thu dường như gợi rất nhiều vấn vương trong thơ ca của những người thi sĩ. Đối vớ Lưu Trọng Lư cũng như thế, mùa thu cũng khiến cho ông có rất nhiều cảm xúc. Tác giả đã chọn cho mình một góc riêng để ngắm thu để mơ mẩn vè thu để rồi đứng ngồi không yên khi cảm xúc ùa về và để rồi viết lên những trang thu tuyệt diệu. Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức Em không nghe rạo rực Hai câu thơ mở ra cho chúng ta cả một trời thương nhơ vấn vương. Cả bài thơ là một cuộc đối thoại giữa chàng trai và cô gái giữa người đang ngoài chiến trận với người đang mòn mỏi từng ngày ở nhà ngóng tin. Thật là bồi hồi biết bao khi một người đang thổn thức dang rạo rực đang bừng cháy còn một người thì không nghe thấy gì. Hoặc em cũng đang nghe thấy nhưng anh giả vờ như em không nghe thấy mà hỏi vậy. Em mà tác giả đang gọi là ai? Phải chăng là một người đang buồn rầu ngóng tin hay một người tưởng tượng trong tâm trí nhà thơ hay đó chính là nhà thơ đang nói chuyện với chính lòng mình. Ở đây ta đặt ra một câu hỏi mà rất khó trả lời được. Nhưng là ai không quan trọng, quan trọng chính là người đó đang nghĩ gì đang có tâm sự ra sao trước cảnh đời đang trôi?. Mùa thu trăng mờ, phải trăng ánh trăng chính là một hình ảnh mà các thi nhân rất thích sử dụng khi nói về thu hay khi người ngắm trăng đang mang nhiều tấm trạng. Một mình đứng ngắm trăng rất nhiều tâm sự trong lòng không thể san sẻ cùng ai, nhưng dường như dưới ánh trăng vằng vặc kia như đang hiểu thấu nỗi lòng người thi nhân. Như vậy chủ đề mùa thu đã được nhà thơ diễn tả trước hết bằng từ ngữ. Xuất hiện xuyên suốt bài thơ là một từ "nghe" xuất hiện cả ba lần trong câu thơ đầu tác phẩm. Chúng ta nghe lời thổn thức của mùa thu đã được nhân cách hóa, nghe tiếng lòng rạo rực trong rừng vắng của người phụ nữ đi đánh trận nghe tiếng lá thu rơi. Bên cạnh đó tiếng thu còn được tác giả diễn tả bằng âm thanh “em không nghe”. Hai câu thơ tiếp theo cho người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật trữ tình trong bài thơ. “Hình ảnh người chinh phụ Trong lòng người cô phụ” Hình ảnh người lính ra đi lên đường chiến trận là một hình ảnh có lẽ không thể nào quên được trong tâm trí những người tới đưa tiễn chồng lên chiến trường . Hình ảnh ấy cứ khuất dần khuất dần rồi mất hút hẳn theo mù thu theo dáng hình người lính. Đó là tâm sự chủ yêu của những người cô phụ trong thời kì này. Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ nhưng nó lại mang một âm hưởng lưu luyến bởi tiếng nhạc khiến ta không thôi bồi hồi. “em không nghe rừng thu Lá thu rơi xao xác Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô?” Cách gieo vần liền kết hợp với các từ láy đặt ở cuối câu đã khiến liên kết các câu trong khổ thơ cuối trở nên đều đặn. Khi hình ảnh con nai vàng xuất hiện ta đã nghe được gì khi hình ảnh con nai vàng xuất hiện. Phải chăng ta đã nghe thất tiến lá vàng vỡ vụn dưới bước chân của những con nai vàng ngơ ngác. Tiếng thơ đích thực trong thơ của Lưu Trọng Lư là như thế đó ta không nghe thấy được thu bằng tai mà nghe thấy thu qua trí tưởng tượng nghe vang lên trong tâm hồn. Thu thanh của Lưu Trọng Lư chính là một vô thanh . Đó là cái vô thanh thắng hữu thanh . Có người cho rằng “Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng”. Đấy là rừng châu Âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm. Mùa thu Việt Nam đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: "Rừng thu từng biếc chen hồng". Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác! Tác phẩm đã để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc . Đó là một con mắt nhìn đời nhìn thơ khá khác biệt của Lưu Trọng Lư. Tác phẩm đã khiến cho chúng ta thấy được mùa thu mơ màng bất tận của người thi sĩ đồng thời cũng cho chúng ta thấy được nỗi lòng của người cô phụ đối người chồng nơi chinh chiến. |
Lưu ý: Nội dung chỉ mang tính chất tham khảo.
Mẫu văn bản nghị luận phân tích đánh giá một bài thơ lớp 10? Có bao nhiêu môn học được dạy trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp THPT? (Hình từ Internet)
Có bao nhiêu môn học được dạy trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp THPT?
Căn cứ khoản 1 Điều 5 Thông tư 15/2022/TT-BGDĐT quy định các môn học được dạy trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp THPT là 07 môn như sau:
- Các môn học bắt buộc: Toán, Ngữ văn, Lịch sử.
- Các môn học lựa chọn: Vật lí, Hóa học, Sinh học, Địa lí.
Đánh giá thường xuyên học sinh trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp THPT được quy định ra sao?
Căn cứ khoản 2 Điều 10 Thông tư 15/2022/TT-BGDĐT quy định về đánh giá thường xuyên học sinh trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp THPT như sau:
- Đánh giá thường xuyên được thực hiện thông qua: hỏi-đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí nghiệm, sản phẩm học tập.
- Đối với một môn học, số điểm đánh giá thường xuyên (viết tắt là ĐĐGtx) trong mỗi kì như sau:
+ Môn học có thời lượng giảng dạy từ 168 tiết: 01 ĐĐGtx.
+ Môn học có thời lượng giảng dạy 252 tiết: 02 ĐĐGtx.