5+ Tranh biện về một vấn đề trong đời sống hay nhất? 04 hình thức đánh giá bằng nhận xét của học sinh trung học phổ thông là gì?
5+ Tranh biện về một vấn đề trong đời sống?
Dưới đây là 5 Mẫu tranh biện về một vấn đề trong đời sống mà các bạn có thể tham khảo:
Tranh biện về một vấn đề trong đời sống - Mẫu 1: Tranh biện về việc sử dụng mạng xã hội
Ngày nay, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của con người. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh việc sử dụng mạng xã hội: liệu nó mang lại lợi ích hay gây hại nhiều hơn?
Những người ủng hộ mạng xã hội cho rằng đây là một công cụ hữu ích giúp con người kết nối, chia sẻ thông tin và học hỏi. Nhờ mạng xã hội, mọi người có thể liên lạc với nhau dễ dàng dù ở bất cứ đâu. Ngoài ra, đây cũng là nguồn thông tin phong phú, giúp nâng cao kiến thức và kỹ năng trong nhiều lĩnh vực.
Tuy nhiên, phe phản đối lại cho rằng mạng xã hội có nhiều tác hại. Nó có thể gây nghiện, làm suy giảm khả năng giao tiếp trực tiếp, thậm chí gây ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần. Hơn nữa, mạng xã hội còn là nơi dễ dàng lan truyền tin tức giả mạo, gây hoang mang dư luận.
Vậy, mạng xã hội là lợi hay hại? Câu trả lời phụ thuộc vào cách con người sử dụng nó. Nếu biết cách kiểm soát thời gian và chọn lọc thông tin, mạng xã hội sẽ trở thành công cụ hỗ trợ cuộc sống, thay vì là một tác nhân tiêu cực.
Tranh biện về một vấn đề trong đời sống - Mẫu 2: Tranh biện về việc học đại học có còn quan trọng?
Trong xã hội hiện đại, nhiều người tranh luận về việc liệu học đại học có còn quan trọng hay không, nhất là khi có nhiều tấm gương thành công mà không cần bằng cấp.
Phe ủng hộ đại học cho rằng đây là con đường giúp con người có kiến thức chuyên sâu và cơ hội nghề nghiệp ổn định. Nhiều ngành nghề như y học, kỹ sư, giảng viên đòi hỏi trình độ học vấn cao, và bằng đại học là tiêu chí quan trọng để nhà tuyển dụng đánh giá năng lực ứng viên.
Tuy nhiên, một số ý kiến phản đối cho rằng không phải ai học đại học cũng thành công. Có nhiều con đường khác như học nghề, khởi nghiệp, hoặc tự học qua Internet. Đôi khi, kinh nghiệm thực tế và kỹ năng mềm quan trọng hơn tấm bằng đại học.
Thực tế cho thấy, dù chọn con đường nào, điều quan trọng vẫn là khả năng học hỏi, sáng tạo và thích nghi với sự thay đổi. Đại học không phải là con đường duy nhất, nhưng vẫn là một lựa chọn quan trọng đối với nhiều người.
Tranh biện về một vấn đề trong đời sống - Mẫu 3: Tranh biện về việc cấm xe máy ở thành phố lớn
Giao thông đô thị ngày càng trở nên phức tạp, và nhiều người đề xuất việc cấm xe máy ở thành phố lớn để giảm ùn tắc và ô nhiễm. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn gây nhiều tranh cãi.
Phe ủng hộ cho rằng xe máy là nguyên nhân chính gây ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường. Việc cấm xe máy sẽ khuyến khích người dân sử dụng phương tiện công cộng, giúp cải thiện chất lượng không khí và giảm tai nạn giao thông.
Ngược lại, những người phản đối cho rằng xe máy là phương tiện di chuyển linh hoạt, phù hợp với điều kiện đường sá của Việt Nam. Nếu cấm xe máy mà hệ thống giao thông công cộng chưa đáp ứng đủ nhu cầu, người dân sẽ gặp nhiều khó khăn.
Giải pháp hợp lý nhất là không cấm hoàn toàn xe máy mà cần có lộ trình cụ thể, kết hợp với việc nâng cao chất lượng giao thông công cộng để đảm bảo người dân vẫn có phương tiện di chuyển thuận tiện.
Tranh biện về một vấn đề trong đời sống - Mẫu 4: Tranh biện về việc học sinh có nên đi làm thêm?
Ngày nay, nhiều học sinh trung học và sinh viên đại học lựa chọn đi làm thêm để kiếm thu nhập và tích lũy kinh nghiệm. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn có nhiều ý kiến trái chiều.
Những người ủng hộ cho rằng đi làm thêm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng sống, nâng cao khả năng giao tiếp và quản lý thời gian. Hơn nữa, công việc bán thời gian cũng giúp các bạn trẻ hiểu giá trị của lao động và có thêm kinh nghiệm thực tế.
Tuy nhiên, phe phản đối cho rằng đi làm thêm có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc học. Nhiều học sinh vì mải mê kiếm tiền mà sao nhãng việc học, dẫn đến kết quả học tập giảm sút. Ngoài ra, một số công việc còn có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần của học sinh.
Vậy, học sinh có nên đi làm thêm không? Điều quan trọng là cần có sự cân bằng hợp lý giữa học tập và làm việc, đồng thời chọn những công việc phù hợp để không ảnh hưởng đến tương lai.
Tranh biện về một vấn đề trong đời sống - Mẫu 5: Tranh biện về việc có nên cấm đồ ăn nhanh?
Đồ ăn nhanh đang trở nên phổ biến trong cuộc sống hiện đại, nhưng cũng là nguyên nhân của nhiều vấn đề sức khỏe. Vì vậy, có ý kiến cho rằng nên cấm đồ ăn nhanh để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Những người đồng tình với việc cấm đồ ăn nhanh cho rằng loại thực phẩm này chứa nhiều dầu mỡ, đường và muối, dễ gây béo phì, tim mạch và tiểu đường. Nếu hạn chế hoặc cấm đồ ăn nhanh, sức khỏe của người dân sẽ được cải thiện.
Tuy nhiên, nhiều người phản đối cho rằng việc ăn uống là quyền tự do cá nhân, không thể ép buộc mọi người từ bỏ sở thích của họ. Hơn nữa, không phải ai cũng ăn đồ ăn nhanh hàng ngày, và nếu sử dụng hợp lý thì không gây hại.
Thay vì cấm hoàn toàn, giải pháp tốt hơn là nâng cao nhận thức của người dân về chế độ ăn uống lành mạnh và khuyến khích các chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh cải thiện chất lượng thực phẩm để đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng.
Lưu ý: Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo!
5+ Tranh biện về một vấn đề trong đời sống hay nhất? 04 hình thức đánh giá bằng nhận xét của học sinh trung học phổ thông là gì? (Hình ảnh từ Internet)
04 hình thức đánh giá bằng nhận xét của học sinh trung học phổ thông là gì?
Căn cứ theo khoản 3 Điều 5 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT quy định về hình thức đánh giá bằng nhận xét của học sinh trung học phổ thông như sau:
- Giáo viên dùng hình thức nói hoặc viết để nhận xét việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh; nhận xét sự tiến bộ, ưu điểm nổi bật, hạn chế chủ yếu của học sinh trong quá trình rèn luyện và học tập; đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.
- Học sinh dùng hình thức nói hoặc viết để tự nhận xét về việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập, sự tiến bộ, ưu điểm nổi bật, hạn chế chủ yếu của bản thân.
- Cha mẹ học sinh, cơ quan, tổ chức, cá nhân có tham gia vào quá trình giáo dục học sinh cung cấp thông tin phản hồi về việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh.
- Đánh giá bằng nhận xét kết quả rèn luyện và học tập của học sinh được sử dụng trong đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì thông qua các hình thức kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh phù hợp với đặc thù của môn học.
Hình thức đánh giá thường xuyên của học sinh trung học phổ thông được quy định như thế nào?
Căn cứ theo Điều 6 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT quy định về hình thức đánh giá thường xuyên của học sinh trung học phổ thông như sau:
(1) Đánh giá thường xuyên được thực hiện thông qua: hỏi - đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí nghiệm, sản phẩm học tập.
(2) Đối với một môn học, mỗi học sinh được kiểm tra, đánh giá nhiều lần, trong đó chọn một số lần kiểm tra, đánh giá phù hợp với tiến trình dạy học theo kế hoạch giáo dục của tổ chuyên môn, ghi kết quả đánh giá vào sổ theo dõi và đánh giá học sinh (theo lớp học) để sử dụng trong việc đánh giá kết quả học tập môn học theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT, như sau:
- Đối với môn học đánh giá bằng nhận xét (không bao gồm cụm chuyên đề học tập): mỗi học kì chọn 02 lần.
- Đối với môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp đánh giá bằng điểm số (không bao gồm cụm chuyên đề học tập), chọn số điểm đánh giá thường xuyên (sau đây viết tắt là ĐĐGtx) trong mỗi học kì như sau:
+ Môn học có 35 tiết/năm học: 02 ĐĐGtx.
+ Môn học có trên 35 tiết/năm học đến 70 tiết/năm học: 03 ĐĐGtx.
+ Môn học có trên 70 tiết/năm học: 04 ĐĐGtx.
(3) Đối với cụm chuyên đề học tập của môn học ở cấp trung học phổ thông, mỗi học sinh được kiểm tra, đánh giá theo từng chuyên đề học tập, trong đó chọn kết quả của 01 lần kiểm tra, đánh giá làm kết quả đánh giá của cụm chuyên đề học tập. Kết quả đánh giá của cụm chuyên đề học tập của môn học được tính là kết quả của 01 lần đánh giá thường xuyên của môn học đó và ghi vào sổ theo dõi và đánh giá học sinh (theo lớp học) để sử dụng trong việc đánh giá kết quả học tập môn học theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT.