Thu nhập từ tiền lương dạy thêm có phải chịu thuế thu nhập cá nhân không?
Thu nhập từ tiền lương dạy thêm có phải chịu thuế thu nhập cá nhân không?
Căn cứ theo khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC quy định về các khoản thu nhập chịu thuế bao gồm:
Các khoản thu nhập chịu thuế
...
2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công
Thu nhập từ tiền lương, tiền công là thu nhập người lao động nhận được từ người sử dụng lao động, bao gồm:
a) Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền.
...
c) Tiền thù lao nhận được dưới các hình thức như: tiền hoa hồng đại lý bán hàng hóa, tiền hoa hồng môi giới; tiền tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; tiền tham gia các dự án, đề án; tiền nhuận bút theo quy định của pháp luật về chế độ nhuận bút; tiền tham gia các hoạt động giảng dạy; tiền tham gia biểu diễn văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao; tiền dịch vụ quảng cáo; tiền dịch vụ khác, thù lao khác.
d) Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị doanh nghiệp, ban kiểm soát doanh nghiệp, ban quản lý dự án, hội đồng quản lý, các hiệp hội, hội nghề nghiệp và các tổ chức khác.
đ) Các khoản lợi ích bằng tiền hoặc không bằng tiền ngoài tiền lương, tiền công do người sử dụng lao động trả mà người nộp thuế được hưởng dưới mọi hình thức:
...
Theo quy định trên, thu nhập của giáo viên từ việc dạy thêm thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân.
Như vậy, giáo viên dạy thêm có trách nhiệm kê khai và nộp thuế theo quy định pháp luật về thuế thu nhập cá nhân, tùy thuộc vào hình thức hợp đồng và mức thu nhập cụ thể.
Thu nhập từ tiền lương dạy thêm có phải chịu thuế thu nhập cá nhân không? (Hình ảnh từ Internet)
Những trường hợp mà giáo viên không phải nộp thuế thu nhập cá nhân?
Theo khoản 1 Điều 7, khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC, cá nhân không có người phụ thuộc thu nhập khi có tổng thu nhập từ tiền lương, tiền công từ dưới 11 triệu đồng/tháng sau khi đã trừ các khoản sau:
- Các khoản đóng bảo hiểm, quỹ hưu trí tự nguyện, đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học.
- Các khoản thu nhập được miễn thuế thu nhập cá nhân.
- Các khoản không tính thuế thu nhập cá nhân.
Đồng thời, theo điểm i khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC quy định quy định cá nhân cư trú ký hợp đồng lao động dưới 03 tháng/không ký hợp đồng lao động có tổng mức trả thu nhập từ 02 triệu đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả.
Trừ trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân.
Trong trường hợp cá nhân không ký hợp đồng lao động hoặc ký hợp đồng lao động dưới 03 tháng mà có thu nhập từ tiền lương, tiền cồng mỗi lần nhận từ 02 triệu đồng trở lên phải nộp thuế với mức 10%, trừ trường hợp đủ điều kiện làm cam kết theo Mẫu 08/CK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư 80/2021/TT-BTC.
Như vậy, giáo viên thuộc đối tượng không phải nộp thuế thu nhập cá nhân khi:
- Cá nhân không có người phụ thuộc không phải nộp thuế thu nhập khi có tổng thu nhập từ tiền lương, tiền công dưới 11 triệu đồng/tháng sau khi đã trừ các khoản giảm trừ.
- Cá nhân không ký hợp đồng lao động/ký hợp đồng lao động dưới 03 tháng mà có thu nhập từ tiền lương, tiền cồng mỗi lần nhận dưới 2 triệu đồng/lần hoặc từ 02 triệu đồng/lần trở lên nhưng đủ điều kiện làm cam kết tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì không phải đóng thuế thu nhập cá nhân.
Dạy thêm được thực hiện theo nguyên tắc nào?
Căn cứ Điều 3 Thông tư 29/2024/TT-BGDĐT quy định về nguyên tắc dạy thêm cụ thể gồm 04 nguyên tắc như sau:
- Dạy thêm, học thêm chỉ được tổ chức khi học sinh, học viên (sau đây gọi chung là học sinh) có nhu cầu học thêm, tự nguyện học thêm và được cha mẹ hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ học sinh) đồng ý. Nhà trường, tổ chức, cá nhân tổ chức dạy thêm, học thêm không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc học sinh học thêm.
- Nội dung dạy thêm, học thêm không trái với quy định của pháp luật Việt Nam, không mang định kiến về sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, giới, địa vị xã hội. Không cắt giảm nội dung dạy học theo kế hoạch giáo dục của nhà trường để đưa vào dạy thêm.
- Việc dạy thêm, học thêm phải góp phần phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh; không làm ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chương trình giáo dục của nhà trường và việc thực hiện chương trình môn học của giáo viên.
- Thời lượng, thời gian, địa điểm và hình thức tổ chức dạy thêm, học thêm phải phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi, bảo đảm sức khoẻ của học sinh; tuân thủ quy định của pháp luật về thời giờ làm việc, giờ làm thêm và các quy định của pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn, vệ sinh môi trường, phòng chống cháy nổ tại khu vực có lớp dạy thêm, học thêm.