Bản án về tranh hợp đồng thẻ tín dụng số 2311/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 2311/2023/DS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TRANH HỢP ĐỒNG THẺ TÍN DỤNG

Ngày 28 tháng 09 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án dân sự thụ lý số 2575/2022/TLST- DS ngày 22 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp Hợp đồng thẻ tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 658/2023/QĐXX – ST ngày 12/10/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 537/2023/QĐ – HPT ngày 03/11/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần T Địa chỉ: Lầu 8 – Số 266 – 268 đường NKKN, Phường O, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh T (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Số 80/17 Đường số 8, Phường M, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Đức Th (Vắng mặt) Địa chỉ: 236 đường ĐBP, Phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/11/2022, các bản tự khai và các biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, đại diện nguyên đơn trình bày:

Ngày 15/06/2020, ông Nguyễn Đức Th có ký với Ngân hàng Thương mại cổ phần T. Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng– các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ thu nhập của ông Th, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 20,000,000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân, cụ thể:

Loại thẻ: Visa Pay Wave Cre Classic Số thẻ: 472074-2820 Hạn mức: 20,000,000 Ngày cấp thẻ: 15/06/2020 Lãi suất áp dụng: 2,6% Sau khi được cấp Thẻ tín dụng ông Nguyễn Đức Th đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 60,896,400 đồng.

Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay Ông Th đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 43,555,000 đồng.

Quá trình thực hiện giao dịch, ông Th đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông Th vẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông Th vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 18 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), ngày 23/04/2021 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 24 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).

Nay ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Đức Th phái thanh toán các khoản nợ sau cho ngân hàng, tạm tính đến ngày 28/11/2023:

Dư nợ gốc: 23,397,877 đồng Lãi quá hạn: 28,896,150 đồng Tổng cộng: 52,294,027 đồng (Bằng chữ: Năm mươi hai triệu, tám trăm chín mươi sáu ngàn, một trăm năm mươi đồng) Thanh toán làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, yêu cầu ông Nguyễn Đức Th có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 29/11/2023 cho đến khi thanh toán hết các khoản nợ vay theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng.

Bị đơn ông Nguyễn Đức Th đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên không có lời khai.

Tại phiên tòa hôm nay, ông Nguyễn Minh T đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng vẫn đề nghị được giữ nguyên yêu cầu như trong đơn khởi kiện và các bản tự khai.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh tham gia phiên tòa sơ thẩm nhận xét:

* Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán:

Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng Dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể: Thẩm phán xác định đúng quan hệ tranh chấp, đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án, xác định vụ kiện thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa; Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát thực hiện theo đúng quy định; Tòa án tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đúng theo quy định tại Điều 209, 210, 211 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tuy nhiên, Thẩm phán còn vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

* Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng quy định tại Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự.

* Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

+ Đối với nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, 71 BLTTDS.

+ Đối với bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay bị đơn không thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, Điều 72 BLTTDS.

+ Đối với người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay, người đại diện đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 85, 86 Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung vụ án: Căn cứ theo Hợp đông sử dụng Thẻ tín dụng ngày 15/6/2020 (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng có chữ ký xác nhận của hai bên là Ngân hàng Thương mại Cổ phần T và ông Nguyễn Đức Th. Căn cứ Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn và bị đơn có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai thống nhất của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đủ cơ sở để xác định: Ngày 15/6/2020, ông Nguyễn Đức Th có vay vốn theo hình thức mở thẻ tín dụng với hạn mức thẻ 20.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 60.896.400 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ bị đơn đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền 43.555.000 đồng, Do bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán kéo dài, vì vậy, ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền nợ gốc là 23.397.877 đồng; và nợ lãi tạm tính đến ngày 28/11/2023 là 28.896.150 đồng là có cơ sở để chấp nhận phù hợp quy định tại Điều 465 và khoản 2 Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng.

Do đó đề nghị HĐXX tuyên Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí theo quy định, hoàn tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Quan hệ tranh chấp giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín với ông Nguyễn Đức Th là tranh chấp Hợp đồng thẻ tín dụng. Theo Quyết định cung cấp tài liệu, chứng cứ số 1555/2022/QĐ-CCTLCC ngày 04/8/2022 của Công an phường 11, quận Bình Thạnh trả lời: Đương sự Nguyễn Đức Th, sinh năm 1990 có hộ khẩu thường trú: 236 Điện Biên Phủ, Phường 17, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Bình Thạnh.

2. Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn ông Nguyễn Đức Th đã được Tòa án tống đạt hợp lệ, các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý, giấy triệu tập đến tòa trình bày lời khai, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về việc hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử + Các bản pho to về Biên bản về việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Th đều vắng mặt không có lý do, vì vậy Toà án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đại diện nguyên đơn ông Nguyễn Minh T có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc. Bị đơn đã từ bỏ quyền được chứng minh của mình thông qua việc không đến Tòa án tham gia tố tụng nên bị đơn phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự.

3.Về yêu cầu của các đương sự:

Căn cứ vào lời trình bày của đại diện nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Ngày 15/6/2020, tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng, ông Nguyễn Đức Thịnh có vay vốn của Ngân hàng Thương mại cổ phần T theo hình thức mở thẻ tín dụng với hạn mức thẻ 20.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Thông qua Giấy đề nghị Ngân hàng đã cấp cho ông Th thẻ Visa Pay Wave Cre Classic, Số thẻ là 472074-2820. Thông qua số thẻ nêu trên ông Nguyễn Đức Th đã đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 60,896,400 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 43,555,000 đồng. Do đó số tiền mà ông Th còn nợ lại ngân hàng tính đến ngày 02/10/2023 với tổng số tiền là 52,294,027 đồng (Bằng chữ: Năm mươi hai triệu, tám trăm chín mươi sáu ngàn, một trăm năm mươi đồng); trong đó nợ gốc:

23,397,877 đồng; Lãi quá hạn: 28,896,150 đồng.

Hội đồng xét xử xét:

Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi vốn vay theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng được gọi chung là Hợp đồng sử dụng thẻ số 472074-2820. Do ông Nguyễn Đức Thịnh không thanh toán đầy đủ số tiền nợ còn thiếu đúng thỏa thuận tại Điều 18 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) nên ngày 23/04/2021 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 24 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).

Hội đồng xét xử nhận thấy, căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Căn cứ vào hợp đồng tín dụng được ký kết giữa hai bên cũng như quy định tại Điều 91, 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; Căn cứ Điều 463, Điều 468, Điều 470; Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thanh toán số tiền tạm tính đến ngày 28/11/2023 với tổng số tiền là 52,294,027 đồng (Bằng chữ: Năm mươi hai triệu, tám trăm chín mươi sáu ngàn, một trăm năm mươi đồng); trong đó nợ gốc: 23,397,877 đồng; Lãi quá hạn: 28,896,150 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật để chấp nhận toàn bộ yêu của nguyên đơn buộc bị đơn trả toàn bộ số tiền nợ gốc và nợ lãi ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận, đồng thời điều này cũng phù hợp với lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải tiếp tục thanh toán tiền lãi phát sinh kể từ ngày tiếp theo liền kề của ngày xét xử là ngày 29/11/2023 cho đến ngày trả hết nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất phạt vi phạm.

3.Về án phí:

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.

Nguyên đơn không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 463, Điều 468, Điều 470; điểm b khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 3, khoản 2 Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Các khoản 3 và 4 Điều 8, Điều 10, điểm a, khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất phạt vi phạm;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Ngân hàng Thương mại cổ phần T.

Buộc ông Nguyễn Đức Th phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần T số tiền còn nợ tình đến ngày 28/11/2023 với tổng số tiền là 52,294,027 đồng (Bằng chữ: Năm mươi hai triệu, tám trăm chín mươi sáu ngàn, một trăm năm mươi đồng); trong đó nợ gốc: 23,397,877 đồng; Lãi quá hạn: 28,896,150 đồng.

Phương thức thanh toán: Trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ sau ngày xét xử 29/11/2023, ông Nguyễn Đức Th còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉ cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay.

2. Về án phí:

Ông Nguyễn Đức Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2,614,701 đồng (Hai triệu sáu trăm mười bốn ngàn bảy trăm lẻ một đồng).

Ngân hàng Thương mại cổ phần T không phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm. Hoàn lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 993.000 đồng (Chí trăm chín mươi ba ngàn đồng) theo biên lai thu số AA/2022/0019080 ngày 14/12/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh cho Ngân hàng Thương mại cổ phần T.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, Bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh hợp đồng thẻ tín dụng số 2311/2023/DS-ST

Số hiệu:2311/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;