Bản án về tranh chấp yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung số 97/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 97/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 228/2022/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 226/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 169/2022/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị NTHN, sinh năm 1989.

Đa chỉ: Ấp M 2A, xã VPĐ, huyện PL, tỉnh BL.

- Bị đơn: Anh LTL, sinh năm 1984.

Đa chỉ: Ấp M 2A, xã VPĐ, huyện PL, tỉnh BL.

(Chị N có đơn xin vắng mặt, anh L vắng mặt lần 2 không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/4/2022, bản tự khai và các biên bản lấy lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị NTHN trình bày: Vào năm 2007, được sự cho phép của hai bên gia đình có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán ở địa phương cho chị và anh L nên vợ thành chồng, hôn nhân của anh chị là hoàn toàn tự nguyện, sau đó chị và anh L có đi đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã VPĐ, huyện PL, tỉnh BL cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn để chị yêu cầu xin ly hôn với anh L là do tính tình giữa hai người không hòa hợp, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Do trong cuộc sống vợ chồng anh L thường xuyên ghen tuông vô cớ, rượu chè bê tha, không có chí thú làm ăn và hành hạ đánh đập vợ con. Nay xét thấy cuộc sống vợ chồng không thể hàn gắn được với nhau nữa, hiện tại chị không còn tình cảm gì với anh L nên nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh LTL.

Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng chị và anh L có 02 người con chung tên Lâm Tấn Khang, sinh ngày 10/12/2008 và LTHT, sinh ngày 05/10/2010. Hiện tại cháu T đang ở cùng với chị, còn cháu Khang đang sống cùng với anh L. Nay ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu T và đồng ý giao cháu Khang cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục. Chị không yêu cầu anh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung chị N xác định: Trong thời gian chung sống vợ chồng chị và anh L không có tài sản chung và nợ chung nên khi ly hôn chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đi với bị đơn anh LTL: Mặc dù anh LTL đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập để làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh LTL vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh LTL theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện PL phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm như sau:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn chị NTHN là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh LTL chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: Chị N và anh L kết hôn với nhau vào năm 2007, hôn nhân của anh chị là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng trong thời gian chung sống vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được, hiện tại anh chị mỗi người sống một nơi, không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Xét thấy hôn nhân giữa chị N và anh L nếu tiếp tục kéo dài thì cũng không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị N được ly hôn với anh L là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình giao người con chung tên Lâm Tấn Khang, sinh ngày 10/12/2008 cho anh L được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục; Giao người con tên LTHT, sinh ngày 05/10/2010 cho chị N được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

Về tài sản chung và nợ chung: Do đương sự không yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình: Chị N phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị N có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh LTL, anh L có địa chỉ cư trú tại huyện PL, tỉnh BL. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện PL tỉnh BL.

Chị NTHN có đơn yêu cầu xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị N.

Anh LTL đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh L vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh L.

[2] Về nội dung vụ án: Chị N và anh L kết hôn với nhau vào năm 2007, hôn nhân của anh chị là hoàn toàn tự nguyện, sau đó anh chị có đi đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã VPĐ, huyện PL cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh L thì Hội đồng xét xử thấy rằng: Mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng trong thời gian chung sống vợ chồng chị N và anh L lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn. Hiện tại anh chị cũng đã sống ly thân với nhau khoảng 03 tháng nay. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện ý chí anh chị mong muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Như vậy chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của chị N và anh L là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh L là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng chị N và anh L chung sống với nhau có 02 người con chung tên Lâm Tấn Khang, sinh ngày 10/12/2008 và LTHT, sinh ngày 05/10/2010. Nay ly hôn chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu T, không yêu cầu anh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và đồng ý giao cháu Khang cho anh L được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục. Hội đồng xét xử thấy rằng: Từ lúc chị N và anh L sống ly thân với nhau đến nay thì cháu T sống cùng với chị N, còn cháu Khang sống cùng với anh L, trong khoảng thời gian này cả hai anh chị vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển ổn định về tinh thần cũng như vật chất cho con, điều này thể hiện anh chị đã chăm lo, nuôi dưỡng, giáo dục con rất chu đáo.

Mặc khác, qua tiếp xúc với cháu T thì cháu có nguyện vọng mong muốn được sống cùng với chị N khi chị N và anh L ly hôn với nhau. Do đó, để không làm xáo trộn cuộc sống của con và làm ảnh hưởng đến tâm sinh lý của con chưa thành niên nên căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tiếp tục giao người con tên Lâm Tấn Khang, sinh ngày 10/12/2008 cho anh L được nuôi dưỡng, giáo dục; Giao người con tên LTHT, sinh ngày 05/10/2010 cho chị N được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là hoàn toàn phù hợp.

Chị NTHN không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh LTL.

Chị N và anh L có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị NTHN và anh LTL không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Từ những nhận định trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện PL về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị NTHN đối với anh LTL. Xử cho chị NTHN được ly hôn với anh LTL.

2/. Về con chung: Giao người con tên Lâm Tấn Khang, sinh ngày 10/12/2008 cho anh L được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục. Giao người con tên LTHT, sinh ngày 05/10/2010 cho chị N được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục. Hiện tại cháu Khang đang sống cùng với anh L, còn cháu T đang sống cùng với chị N nên được giữ nguyên.

Chị NTHN không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh LTL.

Chị N và anh L có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: Chị NTHN phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005289 ngày 17 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện PL, tỉnh BL.

5/. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án theo Điều 6; quyền và nghĩa vụ theo các Điều 7, 7a, 7b; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

6/. Án xử sơ thẩm công khai vắng mặt các đương sự, báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung số 97/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:97/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;