Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 59/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 59/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 89/2021/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021 về việc: “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2021/QĐST – HNGĐ, ngày 14 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lệ T, sinh năm 1972 (có mặt) Địa chỉ: ấp P, xã B1, huyện M, tỉnh Vĩnh Long.

* Bị đơn: Anh Huỳnh Văn Mười B, sinh năm: 1973 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp P, xã B1, huyện M, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lệ T trình bày: chị với anh Huỳnh Văn Mười B qua tìm hiểu, quen biết, được gia đình hai bên chấp thuận kết hôn theo phong tục tập quán. Vào ngày 24/5/1995, vợ chồng đăng ký kết hôn tại UBND xã B1, huyện M, tỉnh Vĩnh Long đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 13/1995.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, hòa thuận tại nhà chồng ở ấp T1, xã T2, huyện M, tỉnh Vĩnh Long được một năm thì cất nhà ra ở riêng tại ấp P, xã B1, huyện M, tỉnh Vĩnh Long cho đến nay. Thời gian chung sống hạnh phúc được 15 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do anh Mười B thay đổi tính tình, thường xuyên dùng bạo lực gia đình chửi mắng chị bằng những lời lẽ cộc cằn, thô lỗ, mất văn hóa, xúc phạm đến cha mẹ chị, đánh đập, hành hạ và lấy dao rượt đâm chị, chị la làng và chạy trốn. Gần đây khoảng tháng 3 năm 2021, lúc vợ chồng đi buôn trên ghe thì anh Mười B kiếm chuyện gây gổ rồi dọa rút tay lái định đập chị rồi đạp chị xuống sông nhưng ghe chở nặng rút tay lái ra không được nên thôi. Hiện chị rất hoang mang, lo sợ nếu tiếp tục sống chung thì tính mạng chị sẽ bị đe dọa. Mặc dù trước đây chị đã cho anh Mười B rất nhiều cơ hội để sửa đổi tính tình nhằm hàn gắn hạnh phục gia đình, chung sống dài lâu nhưng anh Mười B không thay đổi mà ngày càng dùng nhiều bạo lực hơn đối với chị. Từ đó mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không khắc phục được, dẫn đến mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị cảm thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị yêu cầu ly hôn với anh Huỳnh Văn Mười B.

- Con chung: quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên là Huỳnh Thanh T3, sinh ngày 01/8/1995. Hiện con chung đã trưởng thành và tự lo được cho bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn anh Huỳnh Văn Mười B nhưng bị đơn vắng mặt không rõ lý do.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lệ T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn anh Huỳnh Văn Mười B vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Hunh Văn Mười B đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh Huỳnh Văn Mười B.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Lệ T và anh Huỳnh Văn Mười B kết hôn theo phong tục tập quán có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã B1, huyện M, tỉnh Vĩnh Long đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số13/1995 nên quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Mười B là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Về mâu thuẩn vợ chồng: xét thấy chị T cho rằng vợ chồng chung sống hạnh phúc, hòa thuận thời gian khoảng 15 năm đầu. Thời gian sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân anh Mười B đánh đập, chửi mắng chị nhiều lần, chị đã cho anh Mười B rất nhiều cơ hội để sửa đổi tính tình nhằm hàn gắn hạnh phúc gia đình, chung sống dài lâu nhưng anh Mười B không thay đổi mà ngày càng dùng nhiều bạo lực hơn đối với chị.

Anh Mười B đã được Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ để trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị T nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa T và anh Mười B không còn hạnh phúc, mâu thuẩn càng trầm trọng, không thể hàn gắn được. Do đó Hội đồng xét xử xét yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ và phù hợp với Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên chấp nhận.

[3] Về con chung: Huỳnh Thanh T3, sinh ngày 01/8/1995. Hiện con chung đã trưởng thành và tự lo được cho bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[ 4] Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết

[5] Về án phí: chị T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Lệ T.

1/Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Lệ T được ly hôn với anh Huỳnh Văn Mười B.

2/Về con chung: Huỳnh Thanh T3, sinh ngày 01/8/1995. Hiện con chung đã trưởng thành và tự lo được cho bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết 3/Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4/ Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lệ T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, số tiền này được khấu trừ từ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M theo lai thu số No 0006840 ngày 12 tháng 4 năm 2021, chị T không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoạc tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 59/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:59/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;