Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 665/2020/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 665/2020/DS-PT NGÀY 14/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 7 năm 2020 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 627/2019/DSPT ngày 24 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” Do bản án dân sự sơ thẩm số 660/2019/DS-ST ngày 05 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3144/2020/QĐ-PT ngày 22 tháng 6 năm 2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Mỹ D, sinh năm: 1970 (có mặt) Địa chỉ: xã X, huyện H, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1970 (có mặt) Địa chỉ: xã X, huyện H, Tp. Hồ Chí Minh.

3.Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị B

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng của nguyên đơn xác định:

Ngày 15/5/2019, bà D có cho bà Nguyễn Thị B vay số tiền 300.000.000đồng, lãi suất 3%/tháng, thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02858 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 20/7/2009 cho bà Nguyễn Thị B. Hai bên có viết giấy tay vay tiền, bà B đã trả cho bà Dđược hai tháng tiền lãi với số tiền 18.000.000đồng rồi ngưng không thanh toán mặc dù bà D đã nhiều lần nhắc nhở.

Nay bà D khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà B phải thanh toán ngay một lần số tiền nợ gốc là 300.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi phát sinh đối với số tiền này. Tiền cho vay là tiền của cá nhân bà D, không liên quan đến chồng bà D. Bà D chỉ yêu cầu cá nhân bà B trả nợ, không có yêu cầu đối với chồng bà B.

* Bà Nguyễn Thị B xác định:

Ngày 15/5/2019, bà B có vay của bà D 300.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, bà B đã thanh toán cho bà D 2 tháng tiền lãi số tiền 30.000.000đồng (không trả trực tiếp mà thông qua con gái bà B), có làm giấy tay vay tiền, thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02858 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 20/7/2009 cho bà Nguyễn Thị B.

Nay bà B công nhận còn nợ bà D số tiền 300.000.000đồng, do hoàn cảnh khó khăn nên bà xin trả dần mỗi tháng 10.000.000đồng cho đến khi hết nợ. Tiền vay của bà D là nợ riêng của cá nhân bà B, không có liên quan đến chồng bà B. Bà B chịu trách nhiệm cá nhân trả nợ cho bà D.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 660/2019/DS-ST ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 280, Điều 351, Điều 357, Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015;

Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

- Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Buộc bà Nguyễn Thị B phải thanh toán cho bà Trần Thị Mỹ D số tiền nợ gốc 300.000.000đ(Ba trăm triệu đồng).

Thi hành một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Bà Trần Thị Mỹ D có trách nhiệm trả lại cho bà Nguyễn Thị B bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02858 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 20/7/2009 cho bà Nguyễn Thị B ngay sau khi bà B thanh toán hết số tiền nợ nói trên.

Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 19/11/2019 Bà B nộp đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm số:

660/2019/DS-ST ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện H. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các đương sự có ý kiến:

- Bà B yêu cầu kháng cáo, đề nghị sửa án sơ thẩm. Vì: do hoàn cảnh khó khăn nên bà xin trả dần mỗi tháng 10.000.000đồng cho đến khi hết nợ đồng thời yêu cầu bà D trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02858 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 20/7/2009 ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

-Bà D yêu cầu bà B mỗi tháng vào ngày 15 D lịch bà B trả cho bà D 30.000.000 đồng, bắt đầu thi hành từ ngày 15/8/2020 cho đến khi bà B trả hết nợ. Bà D đồng ý trả lại cho bà Nguyễn Thị B bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02858 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 20/7/2009.

- Bà B đồng ý hình thức trả nợ như bà D trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Quá trình thụ lý và xét xử vụ án, Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về thủ tục tố tụng:

[1.1].Đơn kháng cáo của bà B nộp trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí đúng thời hạn theo quy định tại Điều 273 và Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp thuận giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[1.2].Về quan hệ pháp luật tranh chấp, quyền khởi kiện, điều kiện khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và người tham gia tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay bà Trần Thị Mỹ D và bà Nguyễn Thị B đã thỏa thuận được với nhau những vấn đề sau:

[2.1] Bà Nguyễn Thị B phải thanh toán cho bà Trần Thị Mỹ D số tiền nợ gốc 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng). Hình thức thanh toán là mỗi tháng vào ngày 15 D lịch bà B trả cho bà D số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng. Bắt đầu thi hành từ ngày 15/8/2020 cho đến trả hết nợ.

[2.2] Nếu bà B vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì bà D có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền đề nghị bà B trả một lần toàn bộ số tiền còn nợ. [2.3] Bà Trần Thị Mỹ D đồng ý trả lại cho bà Nguyễn Thị B bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02858 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 20/7/2009 sau khi án có hiệu lực pháp luật.

[3] Hội đồng xét xử xét các bên đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận này là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

[4] Những phần khác của bản án sơ thẩm các đương sự không có kháng cáo,Viện kiểm sát không có kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật thi hành.

[5] Quan điểm của Viểm kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà B phải chịu số tiền án phí phúc thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

-Căn cứ các Điều 300 và 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

-Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp và quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 660/2019/DS-ST ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, xử:

1. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự giữa bà Trần Thị Mỹ D và bà Nguyễn Thị B những vấn đề sau:

Bà Nguyễn Thị B phải thanh toán cho bà Trần Thị Mỹ D số tiền nợ gốc 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng). Hình thức thanh toán là mỗi tháng vào ngày 15 D lịch bà B trả cho bà D số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng. Bắt đầu thi hành từ ngày 15/8/2020 cho đến trả hết nợ.

Nếu bà B vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì bà D có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền đề nghị bà B trả một lần toàn bộ số tiền còn nợ.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Bà Trần Thị Mỹ D đồng ý trả lại cho bà Nguyễn Thị B bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02858 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 20/7/2009 sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Việc thanh toán nợ và hoàn trả giấy chứng nhận được thực hiện tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Án phí dân sự sơ thẩm là 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng do bà Nguyễn Thị B chịu.

Hoàn lại cho bà Trần Thị Mỹ D số tiền tạm ứng án phí 7.500.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0008554 ngày 01/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự đã sửa đổi bổ sung năm 2014.

3. Án phí dân sự phúc thẩm:

-Bà B phải chịu số tiền án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

Chuyển số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm bà B đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu số AA/2019/0074009 ngày 19/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh sang thành án phí. Bà B đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 665/2020/DS-PT

Số hiệu:665/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;