Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 44/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 44/2021/DS-ST NGÀY 06/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 203/2020/TLST-DS ngày 23/11/2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2021/QĐXXST - DS, ngày 09 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng C; địa chỉ: Số x, Phố L, phường H, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Thế K – Pho Giam đốc phong giao dich Ngân hang C huyên L; địa chỉ: Ấp X, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo uy quyền cho nguyên đơn “Giấy ủy quyền ngày 28/9/2021” (Có mặt).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1967 và ông Trần Trường Đ, sinh năm 1969; cùng đia chỉ: Ấp X, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện lập ngày 21/9/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ có vay của Ngân hàng C các khoản vay cụ thể như sau:

Khoản vay thứ nhất: Vào ngày 17/3/2011, bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ có làm giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay để vay của Ngân hàng C (gọi tắt là: Ngân hàng) số tiền 9.000.000 đồng theo chương trình cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Mục đích vay: Chi phí học tập cho sinh viên Trần Nguyễn Đông H. Thời hạn vay 48 tháng, kỳ hạn trả nợ 06 tháng một lần. Lãi suất 0,5%/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 130% lãi suất khi cho vay. Đến ngày 22/3/2011 được Ngân hàng phê duyệt và giải ngân vào ngày 25/3/2011 với số tiền là 9.000.000đồng và xác định hạn trả nợ cuối cùng là ngày 04/3/2015, bà H và ông Đ đã nhận đủ số tiền trên. Đến ngày 04/3/2015 Ngân hàng tiến hành gia hạn thời hạn trả nợ cho bà H và ông Đ thời hạn trả nợ cuối vào ngày 04/3/2017. Tuy nhiên, từ ngày 04/3/2017 đến nay bà H và ông Đ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn đối với khoản vay này và nhiều lần yêu cầu bà H, ông Đ thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng không thực hiện. Tổng số nợ tính đến ngày 06/9/2021 là 11.419.008đồng (bao gồm nợ gốc 9.000.000đồng và lãi là 2.419.008đồng).

Khoản vay thứ hai: Vào ngày 04/10/2011, bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ có làm giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay để vay của Ngân hàng C (gọi tắt là: Ngân hàng) số tiền 10.000.000 đồng theo chương trình cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Mục đích vay: Chi phí học tập cho sinh viên Trần Nguyễn Đông H. Thời hạn vay 24 tháng, kỳ hạn trả nợ 06 tháng một lần. Lãi suất 0,65%/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 130% lãi suất khi cho vay. Đến ngày 06/10/2011 được Ngân hàng phê duyệt và giải ngân 03 lần với tổng số tiền là 15.000.000đồng và xác định hạn trả nợ cuối cùng là ngày 04/3/2015, bà H và ông Đ đã nhận đủ số tiền trên. Đến ngày 04/3/2015 Ngân hàng tiến hành gia hạn thời hạn trả nợ cho bà H và ông Đ, thời hạn trả nợ cuối vào ngày 04/3/2017. Tuy nhiên, từ ngày 04/3/2017 đến nay bà H và ông Đ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn đối với khoản vay này và nhiều lần yêu cầu bà H, ông Đ thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng không thực hiện. Tổng số nợ tính đến ngày 06/9/2021 là 23.426.943đồng (bao gồm nợ gốc 15.000.000đồng và lãi là 8.426.943đồng).

Khoản vay thứ ba: Vào ngày 04/10/2011, bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ có làm giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay để vay của Ngân hàng C (gọi tắt là: Ngân hàng) số tiền 20.000.000 đồng theo chương trình cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Mục đích vay: Chi phí học tập cho sinh viên Trần Nguyễn Hà M. Thời hạn vay 60 tháng, kỳ hạn trả nợ 06 tháng một lần. Lãi suất 0,65%/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 130% lãi suất khi cho vay. Đến ngày 06/10/2011 được Ngân hàng phê duyệt và giải ngân 03 lần với tổng số tiền là 15.000.000đồng và xác định hạn trả nợ cuối cùng là ngày 04/3/2015, bà H và ông Đ đã nhận đủ số tiền trên. Đến ngày 04/3/2015 Ngân hàng tiến hành gia hạn thời hạn trả nợ cho bà H và ông Đ thời hạn trả nợ cuối vào ngày 04/3/2017. Tuy nhiên, từ ngày 04/3/2017 đến nay bà H và ông Đ chỉ trả được số tiền gốc là 5.000.000đồng còn lại chưa trả, Ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn đối với khoản vay này và nhiều lần yêu cầu bà H, ông Đ thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng không thực hiện. Tổng số nợ tính đến ngày 06/9/2021 là 14.157.470đồng (bao gồm nợ gốc 10.000.000đồng và lãi 4.157.470đồng.

Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ với tổng số tiền còn nợ của các khoản vay đã quá hạn tính đến ngày 06/9/2021 là 49.003.421đồng (tiền vay gốc là 34.000.000đồng, tiền lãi là 14.733.421đồng) và lãi phát sinh theo hợp đồng của các khoản vay cho đến khi trả hết nợ gốc.

Đối với bị đơn ông Trần Trường Đ và bà Nguyễn Thị Hồng H: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông Đ và bà H, nhưng ông, bà không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Đ và bà H hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông, bà vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông, bà để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Tại phiên toà, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xet xử va những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vu án kê tư khi thụ ly vu an đến trước thời điểm Hôi đồng xet xử vao nghi an đã chấp hanh đung cac quy đinh cua phap luật về tố tung dân sư. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 107, 471, 474 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Từ sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông Trần Trường Đ và bà Nguyễn Thị Hồng H nhưng ông, bà không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông, bà hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa bị đơn ông Trần Trường Đ và bà Nguyễn Thị Hồng H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C buộc bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền vay gốc là 34.000.000đồng: Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, Ngân hàng có cung cấp cho Tòa án các chứng cứ chứng minh cho từng khoản vay của bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ, cụ thể: Khoản vay theo giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ, kèm sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ được giải ngân vào ngày 25/3/2011, mã món vay:

6000006200147912; Khoản vay theo giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ, kèm sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ được giải ngân vào ngày 06/10/2011, mã món vay: 6000006200147911; khoản vay theo giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ, kèm sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ được giải ngân vào ngày 06/10/2011, mã món vay: 6000006200147913 bà H là người vay và ông Đ (chồng bà H) là người thừa kế thì tại mục người vay có chữ ký tên Nguyễn Thị Hồng H và mục người thừa kế có chữ ký tên Trần Trường Đ và các giấy tờ khác có liên quan. Xét thấy việc ký kết các khoản vay theo giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay giữa bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ với Ngân hàng là hoàn toàn tự nguyện. Tại thời điểm ký kết, các bên tham gia ký kết hợp đồng có đủ thẩm quyền và năng lực giao kết hợp đồng. Hợp đồng đảm bảo về mặt hình thức và nội dung, không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên có hiệu lực pháp luật. Đối với bị đơn ông Trần Trường Đ và bà Nguyễn Thị Hồng H trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông Đ và bà H biết nhưng ông, bà không có ý kiến phản đối gì xem như tự từ bỏ quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên đủ cở sở để Hội đồng xét xử xác định bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ có thực hiện việc vay vốn của Ngân hàng C các khoản vay với tổng số tiền 34.000.000đồng là có thật. Mặc dù bà H là người trực tiếp đứng tên người vay nhưng ông Trần Trường Đ là chồng bà H, là thành viên của hộ, việc vay vốn của Ngân hàng chính sách mục đích phát triển kinh tế cho hộ gia đình, vì lợi ích chung của hộ. Căn cứ quy định tại Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2005 “Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình”. Vì vậy, bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ phải cùng có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng C. Do đó, Ngân hàng C yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ phải trả tổng số tiền gốc 34.000.000đồng là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 290, Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về lãi suất: Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn buộc bị đơn có nghĩa vụ trả số tiền lãi còn nợ tính đến ngày 06/9/2021 là 15.003.421đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ, kèm sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ được giải ngân vào ngày 25/3/2011, mã món vay: 6000006200147912 lãi suất cho vay trong hạn là 0,5%/tháng và lãi suất quá hạn là 0,65%/tháng; Khoản vay theo giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ, kèm sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ được giải ngân vào ngày 06/10/2011, mã món vay: 6000006200147911 lãi suất cho vay trong hạn là 0,65%/tháng và lãi suất quá hạn là 0,845%/tháng; khoản vay theo giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ, kèm sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ được giải ngân vào ngày 06/10/2011, mã món vay: 6000006200147913 lãi suất cho vay trong hạn là 0,65%/tháng và lãi suất quá hạn là 0,845%/tháng. Xét mức lãi suất do các bên thỏa thuận là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010. Mặt khác, theo bảng kê tính lãi hộ Nguyễn Thị Hồng đến ngày 06/9/2021 của nguyên đơn cung cấp thì sau khi vay bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn tiền lãi tính đến ngày 06/9/2021 của khoản vay ngày 06/10/2011, mã món vay: 6000006200147911 là 4.085.500đồng, số tiền lãi còn nợ là 8.426.943đồng; khoản vay ngày 25/3/2011, mã món vay:

6000006200147912 là 3.990.000đồng, số tiền lãi còn nợ là 2.419.008đồng;

khoản vay ngày 06/10/2011, mã món vay: 6000006200147913 là 7.587.000, số tiền lãi còn nợ là 4.157.470đồng, tổng số lãi các khoản vay còn nợ là 15.003.421đồng. Do vậy, việc bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả tiếp dư nợ gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng đã vi phạm hợp đồng cho vay mà các bên đã ký kết, bị đơn là người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Như vậy, bị đơn phải hoàn trả cho Ngân hàng số tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng tạm tính đến ngày 06/9/2021 của các khoản vay là 15.003.421đồng và tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi trả xong nợ gốc là có căn cứ, phù hợp với nội dung Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ nội dung áp dụng án lệ về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Từ những phân tích trên, bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng C dư nợ tính đến ngày 06/9/2021 với số tiền vay gốc là 34.000.000đồng (Ba mươi bốn triệu đồng), tiền lãi là 15.003.421đồng (Mười lăm triệu không trăm lẻ ba nghìn bốn trăm hai mươi mốt đồng), tổng cộng là 49.003.421đồng (Bốn mươi chín triệu không trăm lẻ ba nghìn bốn trăm hai mươi mốt đồng), (Trong đó số tiền gốc của khoản vay ngày 25/3/2011, mã món vay: 6000006200147912 là 9.000.000đồng, tiền lãi là 2.419.008đồng; số tiền gốc khoản vay ngày 06/10/2011 mã món vay: 6000006200147911 là 15.000.000đồng, tiền lãi là 8.426.943đồng; số tiền gốc của khoản vay ngày 06/10/2011 mã món vay: 6000006200147913 là 10.000.000đồng, tiền lãi là 4.157.470). Kể từ ngày 07/9/2021, bà H và ông Đ còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán của khoản vay, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bà H và ông Đ phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

[4] Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ phải chịu 2.450.171đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 106, 107, 280, 285, 290, 471 và 474 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C: Buộc bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng C dư nợ tính đến ngày 06/9/2021 với số tiền vay gốc là 34.000.000đồng (Ba mươi bốn triệu đồng), tiền lãi là 15.003.421đồng (Mười lăm triệu không trăm lẻ ba nghìn bốn trăm hai mươi mốt đồng), tổng cộng là 49.003.421đồng (Bốn mươi chín triệu không trăm lẻ ba nghìn bốn trăm hai mươi mốt đồng).

“Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Hồng H và ông Trần Trường Đ phải chịu là 2.450.171đồng (Hai triệu bốn trăm năm chục nghìn một trăm bảy mươi mốt đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền giao kết thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 44/2021/DS-ST

Số hiệu:44/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;