Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 20/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 20/2022/DS-ST NGÀY 23/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 137/2021/TLST-DS ngày 23 tháng 11 năm 2021 về “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Kiều Thị Thanh H, sinh năm: 1983. Địa chỉ: ấp B, xã Th, huyện C, tỉnh L.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Văn C, sinh năm: 1967. Địa chỉ: Số 84, đường L, phường 4, thành phố T, tỉnh L (theo văn bản ủy quyền ngày 01/12/2020, có mặt).

- Bị đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm: 1971. Địa chỉ: Số 100/4, ấp Th, xã Th, huyện C, tỉnh L (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 10 năm 2021 và trong quá trình xét xử người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trần Văn C trình bày:

Vào ngày 29/02/2020, bà Kiều Thị Thanh H có cho bà Trần Thị H vay số tiền 37.000.000 đồng, thời hạn vay đến ngày 29/3/2020 trả, hai bên không có thỏa thuận lãi suất, mục đích vay để làm ăn.

Nay đã quá thời hạn trả theo thỏa thuận mà bà Hồng không trả tiền vốn vay cho bà H. Do đó, bà Kiều Thị Thanh H yêu cầu Tòa án buộc bà Trần Thị H trả số tiền vốn vay là 37.000.000 đồng, yêu cầu trả một lần khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Bà Trần Thị H là bị đơn trình bày: Vào thời gian trước đây (bà không nhớ chính xác ngày, tháng, năm) bà có vay của bà H số tiền 10.000.000 đồng, lãi suất mỗi ngày trả 100.000 đồng/10.000.000 đồng. Khi đến hạn trả nợ bà không có khả năng trả, bà H đến nhà hăm dọa, đánh bà và ép bà ký giấy nhận nợ với số tiền 37.000.000 đồng.

Bà H yêu cầu bà trả số tiền 37.000.000 đồng, bà không đồng ý vì bà chỉ có nợ bà H số tiền vay 10.000.000 đồng và đồng ý trả số tiền này. Tuy nhiên, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bà xin được trả dần số tiền vốn vay 10.000.000 đồng, trong thời hạn một tháng sẽ hoàn tất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Kiều Thị Thanh H có đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản với bà Trần Thị H, việc tranh chấp được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bà Trần Thị H cư trú tại huyện Châu, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý giải quyết là đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên trình bày không thống nhất về số tiền vay. Ông C trình bày, bà H có cho bà H vay số tiền 37.000.000 đồng, bà H trình bày chỉ có vay của bà H số tiền 10.000.000 đồng, do không có khả năng trả tiền vốn và lãi nên bà H đã ép bà ký giấy nhận nợ số tiền 37.000.000 đồng, nên bà không đồng ý trả số nợ vốn vay 37.000.000 đồng, chỉ đồng ý trả số tiền vốn vay là 10.000.000 đồng và xin được trả dần số tiền vốn vay 10.000.000 đồng, trong thời hạn một tháng sẽ hoàn tất.

Xét thấy, bà H trình bày chỉ có vay của bà H số tiền 10.000.000 đồng nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh. Tòa án đã nhiều lần triệu tập đương sự đối chất với nhau để làm rõ số tiền vốn vay. Tuy nhiên, bà H đều vắng mặt không đến Tòa án tham dự đối chất, điều này thể hiện bà H đã từ bỏ quyền chứng minh cho lời trình bày của mình. Mặc khác, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà H xác định chữ ký tên trong giấy mượn tiền đề ngày 29/02/2020 mà bà H cung cấp cho Tòa án là của bà, do bà H ép buộc bà ký nhận nợ nhưng bà không có tài liệu chứng cứ, chứng minh. Do đó, có căn cứ xác định: Vào ngày 29/02/2020 bà H có vay bà H số tiền 37.000.000 đồng và yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466, 468 và 470 Bộ luật dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, buộc bà H trả cho bà H số tiền vốn vay 37.000.000 đồng. Bà H còn phải chịu tiền lãi chậm thanh toán nợ gốc theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa, các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà Kiều Thị Thanh H được chấp nhận nên bà Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án (37.000.000 đồng x 5% = 1.850.000 đồng). Bà Kiều Thị Thanh H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 357, 463, 466, 468 và 470 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản của bà Kiều Thị Thanh H đối với bà Trần Thị H.

Buộc bà Trần Thị H có nghĩa vụ trả cho bà Kiều Thị Thanh H số tiền vốn vay là 37.000.000 (Ba mươi bảy triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí: Bà Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.850.000 (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn) đồng.

Bà Kiều Thị Thanh H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 925.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007617 ngày 22 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

4. Về nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 20/2022/DS-ST

Số hiệu:20/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;