Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 49/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH SƠN, TỈNH NINH THUẬN

BN ÁN 49/2022/DS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 95/2022/TLST-DS ngày 08 tháng 7 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2022/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng C.

Đa chỉ trụ sở chính: Tòa nhà CC5, khu B, phường H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn T1 – Giám đốc phòng giao dịch huyện N1 - Chi nhánh tỉnh Ninh Thuận (Theo Quyết định ủy quyền số 7300/QĐ-NHCS ngày 19/9/2019 của Tổng Giám đốc Ngân hàng C).

Đa chỉ phòng giao dịch: Khu phố 3, thị trấn T2, huyện N1, tỉnh Ninh Thuận.

Người được ủy quyền lại: Ông Lê Minh V – Phó Giám đốc phòng giao dịch huyện N1 - Chi nhánh tỉnh Ninh Thuận (Theo Giấy ủy quyền lập ngày 22/6/2022 của Giám đốc phòng giao dịch huyện N1 – chi nhánh tỉnh Ninh Thuận) – Có mặt.

- Bị đơn: Chị Huỳnh Thị N2, sinh năm: 1980 – Xin xét xử vắng mặt.

Đa chỉ: Thôn P, xã M, huyện N1, tỉnh Ninh Thuận.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lưu Thanh T3, sinh năm:

1985 – Xin xét xử vắng mặt.

Đa chỉ: Thôn P, xã M, huyện N1, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện đề ngày 22-6-2022 và quá trình tham gia tố tụng, ông Lê Minh V là Người được ủy quyền lại của Nguyên đơn - Ngân hàng C (Sau đây viết tắt là NHCSXHVN và gọi tắt là Ngân hàng) trình bày:

Chị Huỳnh Thị N2 đứng tên vay vốn tại NHCSXHVN - phòng giao dịch huyện N1 - chi nhánh tỉnh Ninh Thuận, cụ thể như sau:

Khoản vay thứ nhất:

- Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay được phê duyệt ngày 20/10/2016.

- Mã món vay: 6600000708838886.

- Mã khách hàng: 3800069043.

- Số tiền vay: 20.000.000 đồng.

- Lãi suất: 0.66%/ tháng.

- Lãi suất nợ quá hạn: 130% lãi suất khi cho vay.

- Thời hạn cho vay: 60 tháng.

- Phân kỳ trả nợ: 12 tháng/ lần.

- Số tiền trả nợ: 4.000.000 đồng/ lần.

- Hạn trả nợ cuối cùng: Ngày 13/10/2021.

- Lãi tiền vay được trả định kỳ hàng tháng vào ngày 13.

- Mục đích sử dụng vốn vay: Chăn nuôi bò sinh sản theo chương trình Hộ cận nghèo.

- Ngày 28/10/2016, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền 20.000.000 đồng.

Khoản vay thứ hai:

- Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay được phê duyệt ngày 07/5/2018.

- Mã món vay: 6600000712767111.

- Mã khách hàng: 3800069043.

- Số tiền vay: 9.000.000 đồng.

- Lãi suất: 09%/ năm.

- Lãi suất nợ quá hạn: 130% lãi suất khi cho vay.

- Thời hạn cho vay: 60 tháng.

- Phân kỳ trả nợ: 06 tháng/ lần.

- Số tiền trả nợ: 1.000.000 đồng/ lần.

- Hạn trả nợ cuối cùng: Ngày 12/5/2023.

- Lãi suất vay được trả định kỳ hàng tháng vào ngày 12.

- Mục đích sử dụng vốn vay: Sửa nhà vệ sinh, lắp nước sạch.

- Ngày 12/5/2018, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền 9.000.000 đồng.

Tuy nhiên, từ khi vay đến nay, chị N2, anh T3 mới chỉ thanh toán 5.280.995 đồng tiền lãi cho khoản vay thứ nhất và 1.374.117 đồng tiền lãi cho khoản vay thứ hai, sau đó thì không trả tiền gốc và lãi theo thỏa thuận. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện và tại phiên tòa vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, cụ thể:

1/ Yêu cầu chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3 phải thanh toán cho Ngân hàng số nợ gồm:

Khon vay Sửa nhà vệ sinh, lắp nước sạch theo chương trình cho vay Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn:

- Nợ gốc là: 9.000.000 đồng.

- Nợ lãi tính đến ngày 29/9/2022 là: 2.178.769 đồng. Tộng cộng là: 11.178.796 đồng.

Khon vay chăn nuôi bò sinh sản theo chương trình Hộ cận nghèo:

- Nợ gốc: 20.000.000 đồng.

- Nợ lãi tính đến ngày 29/9/2022 là: 4.126.223 đồng. Tổng cộng: 24.126.223 đồng.

Tng số nợ của cả hai khoản vay là 35.305.019 đồng, bao gồm:

- Nợ gốc: 29.000.000 đồng.

- Nợ lãi tính đến ngày 29/9/2022 là: 6.305.019 đồng.

2/ Từ ngày 30/9/2022, buộc chị N2 và anh T3 phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận tại 02 Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay được phê duyệt ngày 20/10/2016 và ngày 07/5/2018 đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

Ti phiên tòa, bị đơn là chị Huỳnh Thị N2 và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Lưu Thanh T3 xin vắng mặt:

Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, anh chị đều đồng ý mỗi người có trách nhiệm trả một nửa số nợ gốc và chịu tiền lãi phát sinh tương ứng cho Ngân hàng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng thống nhất đồng ý với ý kiến của chị N2 và anh T3.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm:

1. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

2. Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của đương sự:

Nguyên đơn, Bị đơn và người có Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

3. Về việc giải quyết vụ án:

Xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Căn cứ vào quy định tại Điều 463, 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 147, 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NHCSXHVN, cụ thể như sau:

- Buộc chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3 mỗi người phải chịu trách nhiệm thanh toán cho NHCSXHVN số nợ gốc: 14.500.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 29/9/2022 là: 3.152.510 đồng.

- Buộc chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3 tiếp tục trả lãi phát sinh kể từ ngày 30/9/2022 cho đến khi trả xong khoản nợ gốc phải thanh toán.

- NHCSXHVN không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3 mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp:

Ngân hàng C khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết về Tranh chấp hợp đồng tín dụng với chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3, yêu cầu anh chị trả tiền gốc và lãi phát sinh theo thỏa thuận. Hội đồng xét xử sơ thẩm xét thấy: Theo thỏa thuận giữa các bên thì mục đích vay vốn là sửa nhà vệ sinh, lắp nước sạch và chăn nuôi bò sinh sản theo chương trình Hộ cận nghèo. Chị N2, anh T3 không có đăng ký kinh doanh, thương mại, thỏa thuận không phát sinh vì mục đích kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và cũng không có mục đích lợi nhuận theo như quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bị đơn là chị Huỳnh Thị N2 có địa chỉ cư trú tại thôn P, xã M, huyện N1, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.

[1.3] Xử lý về sự vắng mặt của đương sự:

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là chị Huỳnh Thị N2 và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Lưu Thanh T3 đều vắng mặt nhưng quá trình giải quyết đã có ý kiến trình bày và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm tiến hành xét xử vắng mặt anh chị.

[2] Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu khởi kiện của NHCSXHVN, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận thấy:

[2.1] Về việc NHCSXHVN yêu cầu chị Huỳnh Thị N2, anh Lưu Thanh T3 phải thanh toán tổng số tiền nợ gốc của hai khoản vay là 29.000.000 đồng:

Qua lời trình bày của đại diện Ngân hàng và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Ngân hàng đã phê duyệt cho chị N2 hai khoản vay, cụ thể như sau:

- Khoản vay thứ nhất: Số tiền vay: 20.000.000 đồng, thời hạn cho vay: 60 tháng, hạn trả nợ cuối cùng: Ngày 13/10/2021.

- Khoản vay thứ hai: Số tiền vay: 9.000.000 đồng, thời hạn cho vay: 60 tháng, hạn trả nợ cuối cùng: Ngày 12/5/2023.

Xét thấy: Giao dịch xác lập giữa các bên dựa trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, không trái đạo đức xã hội, có hình thức, nội dung phù hợp pháp luật, đúng quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng nên được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Ngày 28/10/2016 và 12/5/2018, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền của hai khoản vay trên. Tuy nhiên, sau khi vay, chị N2 và anh T3 không thanh toán cho Ngân hàng tiền gốc và lãi theo đúng thỏa thuận. Hiện khoản vay đã quá kỳ hạn trả nợ và chuyển sang nợ quá hạn. Việc vi phạm nghĩa vụ của bị đơn trong một thời gian dài đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng được pháp luật bảo vệ, vi phạm các thỏa thuận đã ký kết. Anh Lưu Thanh T3 không trực tiếp ký kết giao dịch nhưng đồng ý ký thừa kế khoản vay và ủy quyền cho chị N2 đại diện đứng tên người vay để thực hiện các giao dịch với Ngân hàng. Hơn nữa, đây là khoản vay chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu, sinh hoạt, sản xuất của gia đình nên anh T3 và chị N2 phải chịu trách nhiệm liên đới về nghĩa vụ thanh toán khoản nợ cho Ngân hàng. Do đó, việc NHCSXHVN yêu cầu chị N2 và anh T3 phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc và tiền lãi phát sinh là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự, Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận.

[2.2] Về việc NHCSXHVN yêu cầu chị N2 và anh T3 phải thanh toán số tiền nợ lãi phát sinh:

Xét thấy: NHCSXHVN cho chị N2, anh T3 vay tổng số tiền 29.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận của hai khoản vay là: 09/năm và 0,66%/ tháng; lãi suất nợ quá hạn: 130% lãi suất khi cho vay. Các bên đã thỏa thuận với nhau về thời hạn thanh toán, mức lãi suất cho vay nên việc chị N2, anh T3 không thanh toán tiền nợ gốc, nợ lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Về thời gian, mức tính lãi suất mà Ngân hàng đã áp dụng là hoàn toàn phù hợp với thỏa thuận tại 02 Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay đã được phê duyệt, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, Điều 11, Điều 17 Quy chế cho vay của các Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (đã được sửa đổi bổ sung bằng Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005): “Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định và thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng”, điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm quy định: “Mức lãi suất hai bên thỏa thuận” hướng dẫn tại khoản 1 điều này là mức lãi suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc tại Tòa án. Trường hợp, các bên không có thỏa thuận về mức lãi suất nợ quá hạn thì mức lãi suất nợ quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn”. Do đó, Ngân hàng yêu cầu chị N2 và anh T3 phải thanh toán tiền lãi là có cơ sở nên được chấp nhận.

Về khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

Quá trình giải quyết, chị N2 và anh T3 đều đồng ý mỗi người sẽ chịu trách nhiệm thanh toán một nửa khoản nợ gốc và khoản tiền lãi phát sinh tương ứng. Tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng đồng ý với phương án trả nợ này.

[2.3] Từ những phân tích trên và xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của NHCSXHVN:

- Buộc chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3 phải có nghĩa vụ thanh toán cho NHCSXHVN số tiền nợ gốc và lãi, cụ thể:

Khon vay Sửa nhà vệ sinh, lắp nước sạch theo chương trình cho vay Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn:

- Nợ gốc là: 9.000.000 đồng.

- Nợ lãi tính đến ngày 29/9/2022 là: 2.178.769 đồng. Tộng cộng là: 11.178.796 đồng.

Khon vay chăn nuôi bò sinh sản theo chương trình Hộ cận nghèo:

- Nợ gốc: 20.000.000 đồng.

- Nợ lãi tính đến ngày 29/9/2022 là: 4.126.223 đồng. Tổng cộng: 24.126.223 đồng.

Tng số nợ của cả hai khoản vay là 35.305.019 đồng, bao gồm:

- Nợ gốc: 29.000.000 đồng.

- Nợ lãi tính đến ngày 29/9/2022 là: 6.305.019 đồng.

Được chia phần như sau: Chị N2 và anh T3 mỗi người có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng 14.500.000 đồng tiền nợ gốc và 3.152.510 đồng tiền nợ lãi. Đồng thời, kể từ ngày 30/9/2022, buộc chị N2 và anh T3 còn phải tiếp tục chịu lãi phát sinh với mức lãi suất các bên đã thỏa thuận tại 02 Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay được phê duyệt ngày 20/10/2016 và ngày 07/5/2018 đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc mà mỗi người phải thanh toán.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm c khoản 1 Điều 11, khoản 1, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Ngân hàng C không phải nộp tiền tạm ứng án phí, không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3 mỗi người phải chịu 882.626 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo:

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 280, 357, 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 16 Điều 4, khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 11, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” với chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3.

2/ Buộc chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3 mỗi người phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng C số tiền nợ gốc và lãi là 17.652.510 đồng (Mười bảy triệu sáu trăm năm mươi hai nghìn năm trăm mười đồng), bao gồm:

- Nợ gốc: 14.500.000 đồng (Mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

- Nợ lãi tính đến ngày 29/9/2022 là: 3.152.510 đồng (Ba triệu một trăm năm mươi hai nghìn năm trăm mười đồng).

3/ Kể từ ngày 30/9/2022 cho đến khi thi hành án xong, chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3 mỗi người còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc phải trả chưa thanh toán theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại 02 Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay được phê duyệt ngày 20/10/2016 và ngày 07/5/2018 đã ký với Ngân hàng C, cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc mà mỗi người phải thanh toán này.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà chị N2 và anh T3 phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng C theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng C.

4/ Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ngân hàng C không phải nộp tiền tạm ứng án phí, không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Chị Huỳnh Thị N2 và anh Lưu Thanh T3 mỗi người phải chịu 882.626 đồng (Tám trăm tám mươi hai nghìn sáu trăm hai mươi sáu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo:

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/9/2022). Bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 49/2022/DS-ST

Số hiệu:49/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;