Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 26/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 26/2022/DS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 25 tháng 08 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 154/2021/TLST-DS ngày 17 tháng 11 năm 2021 về “tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2022/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 05 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 154/2022/QĐST-DS ngày 05 tháng 08 năm 2022; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 154/2022/QĐST-DS ngày 08 tháng 07 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 154/2022/QĐST-DS ngày 05 tháng 08 năm 2022; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP KT (TB).

Địa chỉ: 191 BT, phường LĐH, quận HBT, thành phố Hà Nội Đại diện theo pháp luật: ông Hồ Hùng A, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị;

Đại diện theo ủy quyền: bà Đặng Thị Thanh B – Chức vụ: Giám đốc xử lý nợ (Văn bản ủy quyền số: 1219/2017/QĐ-HĐQT ngày 27.09.2017) Bà Đặng Thị Thanh B ủy quyền cho ông Kiều Tấn Th, bà Trần Thị Thanh B1 chức vụ: Cán bộ xử lý nợ tham gia tố tụng tại Tòa án (Văn bản ủy quyền số: 882- 03/2021/GUQ-TCB ngày 22.09.2021). (Có mặt)

- Bị đơn: Ông Hà Xuân T– sinh năm 1989 Địa chỉ: 112/12 PNT, phường HK, quận TK, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH TM&DV du lịch ĐGĐ.

Địa chỉ: 119 MN, quận TK, thành phố Đà Nẵng.

Đại diện theo pháp luật: ông Dương Văn Đ, chức vụ: Giám đốc. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên toà hôm nay, ngƣời đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Trần Thị Thanh B1 trình bày:

Ngân hàng TMCP KT (TB ) với ông Hà Xuân T đã ký Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số THK201967187890/HDTD ngày 26/09/2019, với số tiền vay là: 240.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng, lãi suất: thả nổi, mục đích vay vốn: vay mua ô tô. Để bảo đảm cho các nghĩa vụ tín dụng tại TB, ông Hà Xuân T đã thế chấp tài sản là: 01 xe ô tô KIA, 5 chỗ ngồi, số khung:

41A6KC157906, số máy: G4FGKH727812, biển kiểm soát: 47A-298.72 theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 054480 do Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 19/09/2019 (Theo Hợp đồng thế chấp tài sản số THK201967187890/HDTC ký ngày 26/09/2019 giữa ông Hà Xuân T và TB).

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Hà Xuân T đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo như cam kết trong các Hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ, cụ thể: Đến ngày 01/08/2022, ông Hà Xuân T đã trả được số tiền gốc và lãi cho TB là 99.019.260 đồng trong đó: nợ gốc: 71.333.894 đồng và nợ lãi: 27.685.366 đồng.

Dư nợ tạm tính của ông Hà Xuân T đến ngày 25/08/2022 là: 200.014.026 đồng (Hai trăm triệu không trăm mười bốn nghìn không trăm hai mươi sáu đồng), trong đó nợ gốc: 168.666.106 đồng, nợ lãi: 31.347.920 đồng.

Để bảo vệ quyền và lợi ích của TB, đề nghị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê giải quyết các vấn đề sau:

Buộc ông Hà Xuân T thanh toán cho TB số tiền: 200.014.026 đồng, trong đó nợ gốc: 168.666.106 đồng, nợ lãi: 31.347.920 đồng và các khoản nợ lãi phát sinh theo lãi suất th a thuận tại Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số THK201967187890/HDTD ký ngày 26/09/2019 kể từ ngày 26/08/2022 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ;

Kể từ ngày Quyết định/bản án có hiệu lực pháp luật ông Hà Xuân T không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên và lãi phát sinh thì TB có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án tiến hành kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi toàn bộ khoản nợ cho TB, tài sản bảo đảm là: 01 xe ô tô KIA, 5 chỗ ngồi, số khung:

41A6KC157906, số máy: G4FGKH727812, biển kiểm soát: 47A-298.72 theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 054480 do Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 19/09/2019.

Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm được dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của ông Hà Xuân T đối với TB. Nếu số tiền thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì ông Hà Xuân T vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ cho TB.

* Bị đơn ông Hà Xuân T trình bày:

Ông T xác nhận có vay vốn tại TB số tiền 240.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng, lãi suất: thả nổi, mục đích vay vốn: vay mua ô tô để sử dụng. Để bảo đảm cho các nghĩa vụ tín dụng tại TB ông T đã thế chấp tài sản là: 01 xe ô tô KIA, biển kiểm soát: 47A-298.72. Ông T xác nhận tính đến ngày 25/08/2022 còn nợ TB số tiền là: 200.014.026 đồng (Hai trăm triệu không trăm mười bốn nghìn không trăm hai mươi sáu đồng), trong đó nợ gốc: 168.666.106 đồng, nợ lãi: 31.347.920 đồng.

Ông T không có ý kiến gì đối với số tiền nợ gốc, nợ lãi và việc phát mãi tài sản thế chấp là xe ô tô KIA, 5 chỗ ngồi, biển kiểm soát: 47A-298.72. Tuy nhiên, chiếc xe này đã được ông cho công ty TNHH TM&DV du lịch ĐGĐ thuê để kinh doanh, sau đó công ty đã bị Đoàn Ngọc H lừa đảo chiếm đoạt. Hiện nay ông T đang khởi kiện đối với công ty TNHH TM&DV du lịch ĐGĐ tại Tòa án nhân dân quận Thanh Khê để yêu cầu công ty hoàn trả giá trị chiếc xe ô tô KIA đã mất theo kết quả định giá trong tố tụng hình sự là 591.885.700 đồng. Hơn nữa, ông đang có công việc cho thu nhập ổn định, do đó đề nghị TB tạo điều kiện cho ông tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc trả dần số tiền còn nợ trong vòng 06 tháng.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH TM&DV du lịch ĐGĐ mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt và không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đã thống nhất được với nhau về số tiền nợ gốc, nợ lãi. Tuy nhiên, nguyên đơn không đồng ý với phương án trả nợ của bị đơn, không đồng ý cho bị đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Ngày 21 tháng 04 năm 2022, Tòa án nhân dân quận Thanh Khê không tiến hành được việc xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp là chiếc xe ô tô KIA, biển kiểm soát: 47A-298.72 theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 054480 do Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 19/09/2019 thuộc sở hữu của ông Hà Xuân T do chiếc xe trên là tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án hình sự hiện không thu hồi được.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê:

- Về thủ tục tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê thống nhất về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án. Đương sự đã được đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự;

- Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê đề nghị HĐXX chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Hà Xuân T phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP KT số tiền tính đến ngày 25/08/2022 là:

200.014.026 đồng (Hai trăm triệu không trăm mười bốn nghìn không trăm hai mươi sáu đồng), trong đó nợ gốc: 168.666.106 đồng, nợ lãi: 31.347.920 đồng và các khoản nợ lãi phát sinh theo lãi suất th a thuận tại Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số THK201967187890/HDTD ký ngày 26/09/2019 kể từ ngày 26/08/2022 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ Về yêu cầu kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi toàn bộ khoản nợ cho TB đối với tài sản bảo đảm là: 01 xe ô tô KIA, 5 chỗ ngồi, số khung:

41A6KC157906, số máy: G4FGKH727812, biển kiểm soát: 47A-298.72 theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 054480 do Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 19/09/2019 trong trường hợp ông Hà Xuân T không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ và lãi phát sinh của TB thì không xem xét giải quyết do chiếc xe trên là tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án hình sự hiện không thu hồi được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP KT (TB) về tranh chấp hợp đồng tín dụng với bị đơn ông Hà Xuân T có mục đích vay mua ô tô để sử dụng là tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Đồng thời bị đơn là ông Hà Xuân T công nhận địa chỉ cư trú theo đơn khởi kiện của TB tại phường Hk, quận TK, thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại các Điều 208;

209; 210; 211 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, đương sự không xuất trình thêm chứng cứ mới.

Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH TM&DV du lịch ĐGĐ vắng mặt tại phiên toà không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn là ông Hà Xuân T phải thanh toán số tiền gốc và tiền lãi (tính đến ngày xét xử sơ thẩm – ngày 25/8/2022) là 200.014.026 đồng và các khoản nợ lãi phát sinh theo lãi suất th a thuận tại Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số THK201967187890/HDTD ký ngày 26/09/2019 kể từ ngày 26/08/2022 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số THK201967187890/HDTD ngày 26/09/2019 giữa Ngân hàng TMCP KT - Chi nhánh Thanh Khê với bị đơn là ông Hà Xuân T được ký kết trên cơ sở tự nguyện, nội dung hợp đồng không trái đạo đức xã hội; th a thuận của các bên về số tiền vay, thời hạn, mục đích, lãi suất vay, phương thức trả nợ phù hợp với quy định của pháp luật. Quá trình thực hiện hợp đồng, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên nguyên đơn có quyền thu hồi nợ trước hạn theo quy định tại Điều 7 của Điều khoản, điều kiện chung về tín dụng tại TB áp dụng cho khách hàng cá nhân. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đã thống nhất được với nhau về số tiền nợ gốc, nợ lãi nhưng nguyên đơn không đồng ý với phương án trả nợ của bị đơn, không đồng ý cho bị đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Xét yêu cầu khởi kiện của TB là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 463 và Điều 466 Bộ luật dân sự; Điều 91 và Điều 95 của Luật các Tổ chức tín dụng nên được Hội đồng xét xử chấp nhận buộc ông Hà Xuân T phải thanh toán cho TB số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm – ngày 25/8/2022 số tiền gốc là 168.666.106 đồng, số tiền lãi là 31.347.920 đồng, tổng cộng là 200.014.026 đồng và các khoản nợ lãi phát sinh theo lãi suất th a thuận tại Đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số THK201967187890/HDTD ký ngày 26/09/2019 kể từ ngày 26/08/2022 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ 3 Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bị đơn là ông Hà Xuân T không thanh toán được khoản nợ cho TB, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hợp đồng thế chấp (tài sản bảo đảm là động sản) số THK201967187890/HDTC ngày 26/09/2019 giữa ông Hà Xuân T và TB được ký trên cơ sở tự nguyện, không bị p buộc, không bị lừa dối; nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật, được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản tại thành phố Đà Nẵng theo Văn bản chứng nhận đăng ký biện pháp bảo đảm, hợp đồng, phiếu yêu cầu đăng ký số: 1343143119 nên phát sinh hiệu lực. Tuy nhiên, các bên đều thừa nhận, tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị đơn là xe ô tô KIA, 5 chỗ ngồi, biển kiểm soát: 47A- 298.72 sau khi thế chấp tại TB chi nhánh Thanh Khê để vay tiền thì ngày 25/12/2019, ông T đã cho Công ty TNHH TM&DV du lịch ĐGĐ thuê và Công ty đã bị Đoàn Ngọc H lừa đảo chiếm đoạt, hiện tài sản không thu hồi được. Ngày 27/12/2021, Tòa án nhân dân TP Đà Nẵng đã xét xử đối với H về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bản án 97/2021/HSST (đã có hiệu lực pháp luật). Về phần trách nhiệm dân sự đã tuyên “buộc bị cáo Đoàn Ngọc H phải bồi thường cho Công ty TNHH TM&DV du lịch ĐGĐ số tiền 591.885.700 đồng”. Hiện nay, Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đang thụ lý giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm số 125/TB-TLVA ngày 07/06/2022 V/v “Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản” giữa nguyên đơn là ông Hà Xuân T và bị đơn là Công ty TNHH TM&DV du lịch ĐGĐ.

Do các bên không th a thuận được việc bổ sung tài sản thế chấp khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết yêu cầu xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp ông Hà Xuân T không trả được nợ của TB.

[4] Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn là ông Hà Xuân T phải thanh toán số tiền 200.014.026 đồng được chấp nhận nên bị đơn ông Hà Xuân T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 5% x 200.014.026 đồng = 10.000.700 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Hoàn trả cho TB số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[5] Về chi phí tố tụng: Chi phi xem xét thẩm định tại chỗ: TB tự nguyện chịu số tiền 2.000.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 463 và Điều 466 Bộ luật dân sự;

- Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 91, Điều 95 của Luật các Tổ chức tín dụng;

- Điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ- HĐTP ngày 11/01/209 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH10 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP KT (TB) đối với ông Hà Xuân T.

Buộc ông Hà Xuân T phải trả cho Ngân hàng TMCP KT (TB) số tiền tính đến ngày 25/08/2022 là: 200.014.026 đồng (Hai trăm triệu không trăm mười bốn nghìn không trăm hai mươi sáu đồng), trong đó nợ gốc: 168.666.106 đồng, nợ lãi:

31.347.920 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên th a thuận trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp các bên có th a thuận về việc điều chỉnh lãi, lãi suất cho vay thì lãi, lãi suất cho vay được xác định theo th a thuận của các bên và văn bản quy phạm pháp luật quy định về lãi, lãi suất có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh lãi, lãi suất.

Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm là 01 xe ô tô KIA, 5 chỗ ngồi, số khung: 41A6KC157906, số máy: G4FGKH727812, biển kiểm soát: 47A-298.72 theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 054480 do Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 19/09/2019 của Ngân hàng TMCP KT (TB).

2. Án phí Dân sự sơ thẩm: ông Hà Xuân T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 10.000.700 (Mười triệu, bảy trăm đồng).

Hoàn trả lại cho Ngân hàng TMCP KT (TB) số tiền 4.721.000 đồng (Bốn triệu bảy trăm hai mươi mốt nghìn đồng) tạm ứng án phí DS-ST đã nộp theo biên lai thu số 0002368 ngày 17 tháng 11 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

3. Chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ số tiền: 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) Ngân hàng TMCP KT (TB) tự nguyện chịu. (Đã nộp và đã chi).

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 26/2022/DS-ST

Số hiệu:26/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;