Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 06/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 06/2021/DS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 24 tháng 6 năm 2021, tại Toà án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 38/2020/TLST-DS, ngày 22 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2021/QĐXXST - DS ngày 26 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 38/2021/QĐST-DS ngày 25 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.

Địa chỉ: số ** đường L, quận Ba Đình, TP. Hà Nội.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn Đ – Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai (theo quyết định ủy quyền số 2965/QĐ-NHNo-PC ngày 27/12/2019).

- Người đại diện theo ủy quyền lại: Ông Ngô Đình N - Trưởng phòng KH-KD Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai (theo giấy ủy quyền số 65/NHNoCP.ĐGL-GUQ ngày 06/11/2020).

Địa chỉ: Số 83 Hùng Vương, thị trấn Phú Hòa, huyện Chư Păh, Gia Lai. Có mặt

2. Bị đơn: - Ông Bùi Văn T, sinh năm 1963;

- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1972 Địa chỉ: Thôn b, xã L, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên toà sơ thẩm đại diện theo ủy quyền lại của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai (Ngân hàng) ông Ngô Đình N trình bày:

Ngày 03/7/2017, ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L có ký với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Chư Păh Đông Gia Lai Hợp đồng tín dụng số: 1391/HĐTD vay số tiền 80.000.000 đồng, lãi suất tại thời điểm vay là 10,5%/năm (0,875%/tháng) thời hạn vay là 12 tháng, hạn trả nợ gốc cuối cùng là ngày 14/11/2019, phương pháp trả lãi tiền vay theo định kỳ 06 tháng/1 kỳ, mục đích vay là chăm sóc 0,6ha cà phê kinh doanh.

Để đảm bảo cho khoản vay nói trên, ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L đã thế chấp cho Ngân hàng thửa đất số 3.., tờ bản đồ 5.., diện tích 502m2 (trong đó 50m2 đất ở, 452m2 đất trồng cây lâu năm), địa chỉ: Thôn .., xã I, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai đã được Ủy ban nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 567367 ngày 13/4/2009 mang tên ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L, theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 925/HĐTC ngày 03/7/2017.

Từ ngày 15/11/2019, khoản vay trên đã bị chuyển nợ quá hạn, Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc và làm việc đòi nợ nhưng ông T và bà L không thực hiện nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.

Tại đơn khởi kiện, Ngân hàng yêu cầu ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền gốc nợ là 80.000.000 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 04/8/2020 là 13.324.931 đồng, (trong đó nợ lãi trong hạn là 10.287.123 đồng, nợ lãi quá hạn là 3.037.808 đồng), tổng cộng là 93.324.931 đồng và tiền lãi đến khi thanh toán nợ xong cho Ngân hàng. Tuy nhiên, đến ngày 21 và 22/12/2020, bà L có trả được cho Ngân hàng 13.000.000 đồng tiền gốc. Do đó, tại phiên tòa Ngân Hàng xin thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Chư Păh Đông Gia Lai số tiền nợ gốc là 67.000.000 đồng, nợ lãi tạm tính từ ngày 15/5/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm 24/6/2021 là 23.490.945 đồng (trong đó lãi trong hạn là 4.234.521 đồng, lãi trong hạn của thời gian quá hạn là 12.837.616 đồng, lãi quá hạn là 6.418.808 đồng). Ông T bà L phải tiếp tục trả cho Ngân hàng các khoản nợ lãi, phí phát sinh theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán nợ xong cho Ngân hàng.

Trường hợp ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L không thực hiện thanh toán các khoản nợ nói trên cho Ngân hàng, Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Ngoài ra, Ngân hàng không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản tự khai bà Nguyễn Thị L trình bày: Ngày 03/7/2017, bà với ông Bùi Văn T có ký Hợp đồng tín dụng số: 1391/HĐTD vay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Chư Păh Đông Gia Lai số tiền 80.000.000 đồng, lãi suất là 10,5%/năm, thời hạn vay là 12 tháng, mục đích vay là chăm sóc cà phê. Đến hạn trả nợ, bà với ông T không có trả nợ cho Ngân hàng, ngày 15/11/2019 chuyển sang nợ quá hạn. Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà và ông T phải trả số tiền gốc là 80.000.000 đồng và tiền lãi đến khi trả hết nợ thì bà nhất trí trả nợ cho Ngân hàng. Đến ngày 21 và 22/12/2020, bà có trả được cho Ngân hàng 13.000.000 đồng tiền gốc, số tiền còn lại là 67.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi bà hẹn đến ngày 12/4/2021 sẽ trả cho Ngân hàng.

Trong trường hợp bà không trả nợ được cho Ngân hàng thì bà đồng ý xử lý tài sản đã thế chấp cho Ngân hàng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Hợp đồng thế chấp số: 925/HĐTC ngày 03/7/2017. Ngoài ra, bà không có yêu cầu gì thêm.

Đối với ông Bùi Văn T, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng ông T không đến Tòa án làm việc. Do đó, Tòa án không lấy được ý kiến của ông T đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do đó Hội đồng xét xử vắng mặt bị đơn quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 463, 466, 468, 470 của Bộ luật dân sự. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L phải trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Chư Păh Đông Gia Lai số tiền là 90.490.945 đồng. Trong đó: tiền gốc là 67.000.000 đồng, lãi (tạm tính đến ngày 24/6/2021) là 23.490.945 đồng và tiền lãi phát sinh cho đến khi trả hết nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu,chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai theo quy định tại khoản 3 Điều 26;

điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn tham gia phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:

Tại đơn khởi kiện, Ngân hàng yêu cầu ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền gốc là 80.000.000 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 04/8/2020 là 13.324.931 đồng, (trong đó lãi trong hạn là 10.287.123 đồng, lãi quá hạn là 3.037.808 đồng), tổng cộng là 93.324.931 đồng và tiền lãi đến khi thanh toán nợ xong cho Ngân hàng. Tuy nhiên, đến ngày 21và 22/12/2020, bà L có trả được cho Ngân hàng 13.000.000 đồng tiền gốc. Do đó, tại phiên tòa Ngân Hàng xin thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 67.000.000 đồng, nợ lãi tạm tính từ ngày 15/5/2019 đến ngày xét xử sở thẩm 24/6/2021 là 23.490.945 đồng (trong đó lãi trong hạn là 4.234.521 đồng, lãi trong hạn của thời gian quá hạn là 12.837.616 đồng, lãi quá hạn là 6.418.808 đồng), tổng cộng là 90.490.945 đồng. Xét, việc thay đổi này không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét hình thức và nội dung của hợp đồng tín dụng số: 1391/HĐTD, ngày 03/7/2017 mà hai bên đã ký kết có đầy đủ chữ ký, con dấu của các bên, phù hợp với quy định của pháp luật, đúng chủ thể tham gia ký kết hợp đồng, nên Hợp đồng tín dụng trên có giá trị pháp lý và có hiệu lực thi hành đối với các bên.

Theo hợp đồng tín dụng thì đến ngày 14/11/2019, ông T bà L phải trả số tiền nợ gốc là 80.000.000 đồng, nhưng ông T bà L đã không trả được nợ. Ngày 15/11/2019 toàn bộ số tiền vay đã chuyển sang nợ quá hạn theo quy chế của Ngân hàng. Ngân hàng đã nhiều lần làm việc với ông T bà L, nhưng ông T bà L mới thanh toán cho Ngân hàng được 13.000.000 đồng tiền gốc là vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại khoản 1 Điều 466, khoản 2 Điều 470 của Bộ luật dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Chư Păh Đông Gia Lai số tiền nợ gốc là 67.000.000 đồng, nợ lãi tạm tính từ ngay 15/5/2019 đến ngày xét xử sở thẩm 24/6/2021 là 23.490.945 đồng (trong đó lãi trong hạn là 4.234.521 đồng, lãi trong hạn của thời gian quá hạn là 12.837.616 đồng, lãi quá hạn là 6.418.808 đồng), tổng cộng là 90.490.945 đồng.

Đối với yêu cầu của Ngân hàng về việc xử lý tài sản thế chấp Hội đồng xét xử thấy rằng: Hình thức và nội dung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 925/HĐTC ngày 03/7/2017, công chứng ngày 05/7/2017 tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện Chư Păh và đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 06/7/2017 tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Gia Lai chi nhánh huyện Chư Păh giữa Ngân hàng với ông T bà L phù hợp với quy định tại các Điều 292, 293, 295, 298, 317, 318, 319 của Bộ luật dân sự. Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, kiểm tra hiện trạng sử dụng xác định được hiện trạng sử dụng đất có ranh giới, tứ cận, vị trí, tờ bản đồ đất phù hợp với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 5673... cấp ngày 13/4/2009. Tại thời điểm thẩm định tài sản không có tranh chấp với bên thứ ba nên Hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Do đó, trong trường hợp ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, thì Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp trên để thu hồi nợ theo Điều 299 của Bộ luật dân sự và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng.

[3] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là: 3.000.000 đồng, ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L phải chịu. Ngân hàng đã nộp tạm ứng chi phí này. Do đó, cần buộc ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ thanh toán lại cho Ngân hàng số tiền này, phù hợp với Điều 155, 156, 157 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ, nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Các Điều 280, 292, 293, 295, 298, 299, 317, 318, 319, 322, 357, 463, 466, 467, 468 và Điều 470 của Bộ luật dân sự.

- Điều 90, 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng.

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Buộc ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Chư Păh Đông Gia Lai tổng số tiền là 90.490.945 đồng, trong đó nợ gốc là 67.000.000 đồng, nợ lãi phát sinh từ ngày 15/5/2019 đến ngày xét xử sở thẩm 24/6/2021 là 23.490.945 đồng (lãi trong hạn là 4.234.521 đồng, tiền lãi trong hạn của thời gian quá hạn là 12.837.616 đồng, lãi quá hạn là 6.418.808 đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. (Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bên phải thi hành án phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay).

2. Trường hợp ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, thì Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số:

925/HĐTC ngày 03/7/2017 để thu hồi nợ.

3. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L phải thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Chư Păh Đông Gia Lai chi phí xem xét lại chỗ là 3.000.000 đồng.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị L phải chịu 4.524.547 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Chư Păh Đông Gia Lai số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.333.000 đồng theo biên lai thu án phí, lệ phí Tòa án số: 0010227, ngày 21 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 06/2021/DS-ST

Số hiệu:06/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;