Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 03/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 03/2022/DS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 24-01-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 108/2021/TLST-DS ngày 16 tháng 6 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2021/QĐXXST-DS ngày 06-9-2021, giữa:

- Nguyên đơn: Ngân hàng N; địa chỉ: Số H, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn : Ông Võ Văn X - Phó Giám Ngân hàng N Chi nhánh huyện G Đông Gia Lai; địa chỉ: Số H, thị trấn K, huyện G, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y; địa chỉ: Thôn T, xã Y, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngân hàng N (Ngân hàng) thông qua Chi nhánh huyện G Đông Gia Lai cho ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y vay tiền theo Hợp đồng tín dụng số 14941217/HĐTD ngày 27-12-2017 kèm theo giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân số 5005LDS201806692 ngày 20-12-2018, số tiền vay là 160.000.000 đồng, mục đích vay là chăm sóc cà phê và mua vật dụng gia đình, thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất 10%/năm, phân kỳ trả nợ gốc là 01 kỳ ngày 20-12-2019. Kỳ hạn trả lãi tiền vay là 03 tháng/lần vào ngày 20 của tháng thứ 3 (có thỏa thuận trả lãi hàng tháng). Khi vay tiền, để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng tín dụng trên giữa Ngân hàng với ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y có giao kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 370217/HĐTC ngày 26-12- 2017. Tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 83, tờ bản đồ số 7 xã Y, huyện G, tỉnh Gia Lai, đã được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CĐ 608486 ngày 26-12-2017 cho ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ngày 30-12-2019 Ngân hàng có Văn bản thông báo chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ đồng ý cho ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y gia hạn thời hạn trả nợ đến ngày 20-3-2020. Về việc trả nợ, ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Y mới trả cho Ngân hàng tiền lãi đến ngày 24-11- 2019 với số tiền là 14.904.109 đồng, sau đó không tiếp tục trả tiền gốc và tiền lãi cho Ngân hàng như đã thỏa thuận nên ngày 21-3-2020 Ngân hàng chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn. Do ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y phải trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 24-01-2022 là 208.350.685 đồng, trong đó nợ gốc là 160.000.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 43.265.753 đồng, nợ lãi trong hạn là 5.084.932 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ. Trường hợp ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y không trả được số nợ trên thì Ngân hàng yêu cầu Tòa án cho phát mãi tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp nêu trên để thu hồi nợ; Về chi phí tố tụng, Ngân hàng yêu cầu ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y phải trả lại cho Ngân hàng toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng.

2. Bị đơn là bà Tăng Hồng Hắc Y trình bày: Bà Tăng Hồng Hắc Y thừa nhận lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng về việc ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y có vay số tiền 160.000.000 đồng và thế chấp tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y là hoàn toàn đúng. Do điều kiện khó khăn, ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y không có khả năng trả nợ nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

3. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn là ông Nguyễn Văn H đến làm việc liên quan đến vụ án nhưng ông Nguyễn Văn H cố tình trốn tránh, không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của ông Nguyễn Văn H.

4. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập các tài liệu, chứng cứ: Hợp đồng tín dụng số 14941217/HĐTD ngày 27-12-2017 kèm theo giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân số 5005LDS201806692 ngày 20- 12-2018; Văn bản thông báo chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ ngày 30-12-2019;

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 370217/HĐTC ngày 26-12-2017; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CĐ 608486 ngày 26-12-2017; Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp; Thông báo chuyển nợ quá hạn; Bảng kê tính lãi; Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh đăng ký thay đổi lần thứ 4 ngày 20-02-2017; Quyết định bổ nhiệm lại cán bộ ngày 22-02-2019; Quyết định ủy quyền ngày 27-12-2019; Thông báo về việc ủy quyền hết hiệu lực số 506/NHNo.IGĐGL-KHKD ngày 01-7-2021; Quyết định về việc giao nhiệm vụ đối với cán bộ số 1152/QĐ- NHNo –TCTL ngày 17-6-2021; Quyết định về sửa đổi, bổ sung Điều lệ ngày 18-12-2019; Quyết định ban hành Điều lệ ngày 23-4-2012; Điều lệ Ngân hàng N; Danh sách mạng lưới chi nhánh Ngân hàng N; Giấy ủy quyền ngày 02-8-2021;Đơn xin gia hạn; Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 04-8-2021.

5. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà nên đề nghị H đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị H đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, H đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định của pháp luật, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết. Hợp đồng giao kết giữa hai bên chủ thể trong đó có một bên chủ thể Ngân hàng là tổ chức tín dụng có đăng ký kinh doanh và một bên là bị đơn không có đăng ký kinh doanh nên được xác định là hợp đồng dân sự về tín dụng và pháp luật áp dụng là Bộ luật Dân sự và Luật Các tổ chức tín dụng; Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không có mặt theo giấy triệu tập, không cung cấp chứng cứ nên phải chịu trách nhiệm về việc không chứng minh được và H đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Hợp đồng tín dụng số 14941217/HĐTD ngày 27-12-2017 kèm theo giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân số 5005LDS201806692 ngày 20-12-2018 giữa nguyên đơn với bị đơn được giao kết hợp pháp nên có hiệu lực, các bên trong hợp đồng có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã cam kết. Bị đơn vi phạm nghĩa vụ của bên vay theo hợp đồng đã giao kết nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả nợ là có căn cứ theo quy định tại Điều 463, Điều 466, Điều 470 của Bộ luật Dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N, buộc ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y phải liên đới trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 24-01-2022 là 208.350.685 đồng, trong đó nợ gốc là 160.000.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 43.265.753 đồng, nợ lãi trong hạn là 5.084.932 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp, H đồng xét xử thấy rằng giữa Ngân hàng với ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y có giao kết các Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 370217/HĐTC ngày 26-12-2017. Tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 83, tờ bản đồ số 7 xã Y, huyện G, tỉnh Gia Lai, đã được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CĐ 608486 ngày 26-12-2017 cho ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y. Qua kết quả xem xét và thẩm định tại chỗ ngày 04-8-2021 thấy rằng, quyền sử dụng đất và tài sản trên đất không có tranh chấp. Vì vậy căn cứ vào Điều 299 của Bộ luật Dân sự, hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp nêu trên, H đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng.

[3] Về chi phí xem xét và thẩm định tại chỗ: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên căn cứ vào Điều 157, 158 của Bộ luật Tố tụng Dân sự buộc ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y phải liên đới hoàn trả lại cho Ngân hàng N toàn bộ số tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng.

[4] Về án phí: Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn là người có nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 288, Điều 299, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng.

- Áp dụng Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Danh mục án phí, lệ phí tòa án Ban hành kèm theo Nghị quyết.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N.

2. Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y phải liên đới trả cho Ngân hàng N tổng số tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số 14941217/HĐTD ngày 27-12-2017 kèm theo giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân số 5005LDS201806692 ngày 20-12-2018 tính đến ngày 24-01-2022 là 208.350.685 đồng (hai trăm không tám triệu ba trăm năm mươi nghìn sáu trăm tám mươi lăm đồng), trong đó nợ gốc là 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng), nợ lãi quá hạn là 43.265.753 đồng (bốn mươi ba triệu hai trăm sáu mươi lăm nghìn bảy trăm năm mươi ba đồng), nợ lãi trong hạn là 5.084.932 đồng (năm triệu không trăm tám mươi bốn nghìn chín trăm ba mươi hai đồng) và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

3. Trong trường hợp ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y không trả đủ số tiền nợ nêu trên cho Ngân hàng N thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 370217/HĐTC ngày 26-12-2017. Tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 83, tờ bản đồ số 7 xã Y, huyện G, tỉnh Gia Lai, đã được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CĐ 608486 ngày 26-12-2017 cho ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y.

4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

5. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y phải liên đới hoàn trả lại cho Ngân hàng N toàn bộ số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

6. Về án phí: Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Tăng Hồng Hắc Y phải liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 10.417.534 đồng (mười triệu bốn trăm mười bảy nghìn năm trăm ba mươi bốn đồng). Hoàn trả lại cho Ngân hàng N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.827.397 đồng (bốn triệu tám trăm hai mươi bảy nghìn ba trăm chín mươi bảy đồng) theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí tòa án số 0011974 ngày 15-6-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Gia Lai.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

8. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên toà thì có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 03/2022/DS-ST

Số hiệu:03/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;