Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 57/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 57/2022/DS-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 06 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 78/2022/TLST-DS ngày 23 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2022/QĐXXST- DS ngày 25 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh D, sinh năm 1969.

Địa chỉ: ấp C, xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Bà Mai Thị X, sinh năm 1978;

Ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1982. Cùng địa chỉ: ấp T, xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre.

(Tại phiên tòa ông D, bà X có mặt, ông B vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải cùng các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Thanh D trình bày:

Trong khoảng thời gian từ ngày 03/11/2021 đến ngày 04/01/2022, ông có bán thức ăn chăn nuôi gia súc cho bà X theo hình thức gối đầu mua hàng trước trả tiền sau, hai bên thỏa thuận sau hai tháng bán vịt sẽ thanh toán tiền thức ăn. Hai bên chỉ thỏa thuận miệng, không lập hợp đồng mua bán bằng văn bản. Ông D giao thức ăn tận nhà, bà X ký tên xác nhận vào sổ số bao thức ăn và số tiền thức ăn theo từng đợt giao hàng. Tính đến ngày 04/01/2022, bà X còn nợ tiền thức ăn của ông D là 135.800.000 đồng.

Vào ngày 20/12/2021, ông D có ứng tiền mua vịt giống của công ty và bán vịt giống cho bà X với số tiền 25.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận, thời gian bà X thiếu tiền vịt giống là khoảng 02 tháng, tức cho đến khi xuất chuồng vịt thì trả tiền, nay bà X đã bán vịt nhưng vẫn chưa trả tiền cho ông D. Ông D nhiều lần yêu cầu bà X thanh toán tiền thức ăn và tiền vịt giống nhưng đến nay chưa trả. Bà X và ông B là vợ chồng hợp pháp, việc chăn nuôi để phát triển kinh tế gia đình. Vì vậy, ông D khởi kiện yêu cầu bà X và ông B liên đới trách nhiệm trả cho ông tổng số tiền còn nợ là 159.050.000 đồng.

Theo bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn bà Mai Thị X trình bày:

Bà với ông Nguyễn Thanh B là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ba Tri, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre vào năm 2017. Bà có mua thức ăn chăn nuôi và mua vịt giống của ông D, hiện còn nợ ông D số tiền 159.050.000 đồng. Việc mua thức ăn và vịt giống là do một mình bà thực hiện, ông B không tham gia và cũng không phụ bà chăn nuôi.

Bà chăn nuôi vịt và buôn bán vịt để lo cho kinh tế gia đình. Ông B hiện tại không đi làm gì, không có thu nhập. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do bà lo.

Do đó, bà đồng ý một mình chịu trách nhiệm trả số tiền còn nợ ông D là 159.050.000 đồng, nhưng do kinh tế khó khăn, chăn nuôi vịt bị thua lỗ và hiện tại bà còn nợ tiền thức ăn của cửa hàng khác nên không có khả năng trả một lần số tiền này cho ông D. Bà xin trả dần số nợ trên, cụ thể mỗi quý trả cho ông D 10.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh B đã được tống đạt hợp lệ nhưng ông đều vắng mặt không lý do trong các buổi hòa giải, công khai chứng cứ và phiên tòa. Ông B cũng không gửi ý kiến bằng văn bản gởi cho Tòa án và cũng không có yêu cầu phản tố, không có ý kiến gì liên quan đến chứng cứ do nguyên đơn cung cấp nên trong hồ sơ không có lời trình bày của ông B.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu quan điểm:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán , Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Đúng theo quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

-Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Thanh D đã tuân thủ và thực hiện đúng, đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bà X, ông B không tuân thủ và chưa thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự.

-Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Áp dụng các Điều 430, 440 Bộ luật Dân sự, Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh D, buộc bà Mai Thị X và ông Nguyễn Thanh B liên đới trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Thanh D số tiền 159.050.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Thanh D khởi kiện yêu cầu bà Mai Thị X và ông Nguyễn Thanh B liên đới trách nhiệm trả số tiền mua thức ăn và vịt giống nên xác định đây là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản. Bị đơn bà Mai Thị X và ông Nguyễn Thanh B cư trú tại ấp Tân Điền 2, xã Sơn Phú, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Ông Nguyễn Thanh D khởi kiện yêu cầu bà Mai Thị X và ông Nguyễn Thanh B liên đới trách nhiệm trả số tiền mua thức ăn và vịt giống còn nợ là 159.050.000 đồng . Chứng cứ chứng mX cho yêu cầu khởi kiện ông D cung cấp là: Sổ theo dõi ghi mỗi lần giao thức ăn, Giấy xác nhận nợ đề ngày 25/01/2022 bản chính, nội dung thể hiện ông D có bán thức ăn chăn nuôi và vịt giống cho bà X. Đến ngày 25/01/2022, bà X xác nhận còn nợ ông D số tiền 159.050.000 đồng. Giấy xác nhận nợ có bà Mai Thị X ký tên. Tại Tòa, bà X cũng thừa nhận có mua thức ăn chăn nuôi và vịt giống của ông D, hiện còn nợ ông D 159.050.000 đồng. Tuy bà X cho rằng việc mua thức ăn và vịt giống do một mình bà thực hiện, ông B không tham gia, nhưng bà X và ông B là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hô n tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ba Tri vào năm 2017. Tại tòa, bà X xác định bà mua thức ăn và vịt giống để chăn nuôi vịt để lo chi tiêu, ăn uống và s X hoạt trong gia đình nên ông B phải có trách nhiệm liên đới cùng bà X trả số tiền 159.050.000 đồng cho ông D.

Tại khoản 1 Điều 440 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng”. Theo thỏa thuận của hai bên, bên mua có trách nhiệm trả số tiền sau khoảng 02 tháng mua thức ăn (tức đến ngày xuất chuồng bán vịt), vịt đã bán, tính đến nay đã quá thời hạn thỏa thuận nhưng bị đơn chưa thực hiện việc trả tiền cho ông D, đã vi phạm thời hạn trả tiền. Do đó, ông D khởi kiện yêu cầu bà X, ông B phải liên đới trách nhiệm thanh toán số tiền mua thức ăn và vịt giống còn nợ là có cơ sở nên được chấp nh ận. Ghi nhận ông D không yêu cầu tính lãi đối với số tiền trên.

Tại tòa, bà X xin trả dần số tiền nợ mỗi quý 10.000.000 đồng nhưng không được ông D đồng ý, trước đây giữa hai bên cũng không có thỏa thuận trả dần số tiền trên nên không có cơ sở xem xét yêu cầu trả dần của bà X.

[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh D được chấp nhận nên án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch bà Mai Thị X và ông Nguyễn Thanh B liên đới trách nhiệm nộp theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội là 159.050.000 đồng x 5% = 7.952.000 đồng.

[4] Lời phát biểu của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm tại phiên tòa về vấn đề tuân theo pháp luật tố tụ ng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là phù hợp; ý kiến về việc giải quyết vụ án là phù hợp với việc đánh giá chứng cứ của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 288, 430 và Điều 440 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh D. Buộc bà Mai Thị X và ông Nguyễn Thanh B liên đới trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Thanh D số tiền mua thức ăn và vịt giống còn nợ là 159.050.000 (một trăm năm mươi chín triệu không trăm năm mươi nghìn) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

[2] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:

- Buộc bà Mai Thị X ông Nguyễn Thanh B liên đới trách nhiệm nộp số tiền án phí là 7.952.000 (bảy triệu chín trăm năm mươi hai nghìn) đồng.

- Chi cục Thi hành án huyện Giồng Trôm hoàn lại cho ông Nguyễn Thanh D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.976.000 đồng (ba triệu chín trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0007078 ngày 23/3/2022.

[3] Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án , đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

“Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 57/2022/DS-ST

Số hiệu:57/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;