Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 05/2022/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 05/2022/KDTM-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 11 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2021/TLST-KDTM ngày 06 tháng 12 năm 2021 về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-KDTM ngày 01 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST-KDTM ngày 20/6/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty A Địa chỉ: Số 46 - 48, N, phường An Lợi Đông, thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hoàng T – Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám Đốc.

Người đại diện theo ủy quyền:

1. Bà Phan Thị Ánh D, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Số 46-48, N, phường An Lợi Đông, thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bà Huỳnh Thị Ngọc H, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Số 46-48, N, phường A, thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Công ty B(Vắng mặt).

Địa chỉ: Một phần lô C1, đường D6, K, ấp Tân Hòa, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Phi D – Chủ tịch Hội đồng quản trị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 28 tháng 6 năm 2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là bà Phan Thị Ánh D trình bày: Ngày 19/5/2020, Công ty A và Công ty B đã ký Hợp đồng mua bán xi măng số 461/2020/HĐKT/TGN kèm phụ lục hợp đồng số 01/2020/PLHĐ ký ngày 24/6/2020 về việc mua bán xi măng tại huyện Đức Hòa.

Từ khi giao kết hợp đồng, Công ty A đã cấp xi măng cho Công ty B và xuất các Hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty B làm cơ sở thanh toán với tổng số tiền xi măng đã cấp theo đơn giá trên Hợp đồng là 1.731.871.400đồng. Tính đến hết ngày 18/12/2020, Công ty B đã thanh toán cho Công ty A với tổng số tiền 850.000.000đồng. Số tiền còn lại mà Công ty B chưa thanh toán cho Công ty A là 881.871.400đồng.

Công ty A đã nhiều lần liên hệ Công ty B nhưng Công ty B vẫn cố tình né tránh.

Nay Công ty A yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Công ty B có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Siêu Thị Thế Giới Nhà số tiền nợ gốc là: 881.871.400 đồng (Bằng chữ: Tám trăm tám mươi mốt triệu, tám trăm bảy mươi mốt nghìn, bốn trăm đồng) và tiền lãi chậm thanh toán với lãi suất 10%/năm tạm tính đến ngày 11/7/2022 là: 137.798.860 đồng, cụ thể:

- Hóa đơn số 0013103, xuất ngày 31/8/2020 với số tiền 424.242.000 đồng. Ngày 04/12/2020 và ngày 18/12/2020 thanh toán một phần của hóa đơn số 0013103 với tổng số tiền thanh toán 344.033.000 đồng. Số tiền quá hạn còn lại là 80.209.000 đồng, ngày hết hạn thanh toán là 17/09/2020, trễ hạn 661 ngày. Số tiền lãi phải trả là: 80.209.000 x 661 ngày x (0,83%/30 ngày) = 14.668.355 đồng.

- Hóa đơn số 0014619, xuất ngày 31/10/2020 với số tiền 212.360.400 đồng, ngày hết hạn thanh toán là 17/11/2020, trễ hạn 600 ngày. Số tiền lãi phải trả là 212.360.400 x 600 x (0,83%/30 ngày) = 35.251.826 đồng.

- Hóa đơn số 0016097, xuất ngày 31/12/2020 với số tiền 589.302.000 đồng, ngày hết hạn thanh toán là 17/01/2021, trễ hạn 539 ngày. Số tiền lãi phải trả là 589.302.000 x 539 x (0,83%/30 ngày) = 87.878.679 đồng.

Như vậy, tổng tiền gốc và tiền lãi trả chậm thanh toán tạm tính đến ngày 11/7/2022 là: 1.019.670.260 đồng (Bằng chữ: Một tỷ, không trăm mười chín triệu, sáu trăm bảy mươi nghìn, hai trăm sáu mươi đồng) và lãi chậm thanh toán sẽ tiếp tục tính từ ngày 12/7/2022 cho đến khi Công ty B thanh toán xong công nợ.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng bị đơn là Công ty B vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xứ nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Quan hệ tranh chấp là Hợp đồng mua bán xi măng. Hợp đồng được hai bên ký kết nhằm mục đích lợi nhuận và hai bên đều có đăng ký kinh doanh, do đó thuộc tranh chấp về kinh doanh thương mại, được quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo mục 6.3 của Hợp đồng mua bán xi măng giữa Công ty Avà Công ty B thì: “…Nếu tranh chấp không thể giải quyết trên cơ sở thương lượng thì một trong hai bên có quyền khởi kiện ra trước Tòa án nơi có trụ sở của bên A”, tức nơi có trụ sở Công ty A Tuy nhiên, trong vụ án này, Công ty Ađã khởi kiện nơi có trụ sở Công ty Blà có lợi cho Công ty Cổ phần bê tông Quang Phúc. Xét thấy, bị đơn Công ty Bcó trụ sở tại địa chỉ: Một phần lô C1, đường D6, K, ấp Tân Hòa, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Long An xác nhận tại công văn số 136/SKHĐT- KTĐN ngày 26/5/2021, do nguyên đơn cung cấp) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn Công ty Bđã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện:

[2.1]. Căn cứ vào Hợp đồng mua bán xi măng số 461/2020/HĐKT/TGN ngày 19/5/2020 và Phụ lục hợp đồng số 01/2020/PLHĐ ngày 24/6/2020 của Công ty Avà Công ty Bcó tồn tại giao dịch mua bán xi măng.

Căn cứ vào phiếu v/v thanh toán công nợ số 0906/BTQP/2021 ngày 09/6/2021 của Công ty Bgửi Công ty Athì Công ty Bthừa nhận còn nợ Công ty Asố tiền 881.871.400đồng, đến nay chưa thanh toán cho Công ty Alà đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán.

Bị đơn Công ty Bđã nhận được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không có ý kiến phản hồi về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền 881.871.400đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 50 Luật Thương mại năm 2005.

[3]. Về lãi suất:

Nguyên đơn là Công ty Ayêu cầu trả lãi suất do chậm thanh toán với mức lãi suất, cụ thể như sau: lãi suất 10%/năm, tạm tính từ ngày hết hạn thanh toán của từng hóa đơn cụ thể, đến ngày 11/7/2022 là: 137.798.860đồng.

Xét thấy, Công ty Bđã vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Cổ phần Siêu thị Vật liệu Xây dựng Thế giới Nhà, do đó nguyên đơn Công ty Ayêu cầu trả lãi suất do chậm thanh toán là có căn cứ, phù hợp với Điều 3 trong “Hợp đồng mua bán xi măng” giữa hai công ty và phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật Thương mại.

[3.1] Về mức lãi suất: Khoản 3.2 của Điều 3 trong “Hợp đồng mua bán xi măng” giữa hai công ty đã quy định “…Nếu quá hạn trên mà bên B vẫn chưa thanh toán thì bên B phải chịu lãi suất trả chậm theo lãi suất vay ngân hàng giao dịch tại thời điểm thanh toán cho số tiền chậm trả…”. Như vậy, hai bên có thỏa thuận việc trả lãi, nhưng không quy định rõ lãi suất bao nhiêu. Vì vậy, việc nguyên đơn yêu cầu lãi suất 10%/năm là có căn cứ, phù hợp với Điều 306 Luật Thương mại nên HĐXX ghi nhận.

[3.2] Về thời gian tính lãi suất: Căn cứ vào việc Công ty Axuất 03 hóa đơn giá trị gia tăng, cụ thể Hóa đơn số 0013103, xuất ngày 31/8/2020; Hóa đơn số 0014619, xuất ngày 31/10/2020 Hóa đơn số 0016097, xuất ngày 31/12/2020. Theo khoản 3.2 Điều 3 của Hợp đồng mua bán xi măng số 461/2020/HĐKT/TGN ngày 19/5/2020 thì “…Vào ngày 30 hàng tháng, hai bên đối chiếu khối lượng, chốt công nợ và xuất hóa đơn. Bên B sẽ thanh toán cho bên A 100% giá trị tiền hàng trong 10 đến 15 ngày làm việc kể từ ngày Bên A xuất hóa đơn GTGT….”. Như vậy, việc Công ty Atính lãi, cụ thể:

- Hóa đơn số 0013103, xuất ngày 31/8/2020 với số tiền 424.242.000 đồng. Ngày 04/12/2020 và ngày 18/12/2020 thanh toán một phần của hóa đơn số 0013103 với tổng số tiền thanh toán 344.033.000 đồng. Số tiền quá hạn còn lại là 80.209.000 đồng, ngày hết hạn thanh toán là 17/09/2020, trễ hạn 661 ngày. Số tiền lãi phải trả là: 80.209.000 x 661 ngày x (0,83%/30 ngày) = 14.668.355 đồng - Hóa đơn số 0014619, xuất ngày 31/10/2020 với số tiền 212.360.400 đồng, ngày hết hạn thanh toán là 17/11/2020, trễ hạn 600 ngày. Số tiền lãi phải trả là 212.360.400 x 600 x (0,83%/30 ngày) = 35.251.826 đồng.

- Hóa đơn số 0016097, xuất ngày 31/12/2020 với số tiền 589.302.000 đồng, ngày hết hạn thanh toán là 17/01/2021, trễ hạn 539 ngày. Số tiền lãi phải trả là 589.302.000 x 539 x (0,83%/30 ngày) = 87.878.679 đồng.

Việc tính lãi trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4]. Về án phí: Công ty B chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 50, 306 Luật thương mại năm 2005;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty A đối với Công ty B về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán xi măng”.

- Buộc Công ty B có trách nhiệm thanh toán cho Công ty A số tiền là: 1.019.670.260 đồng (Bằng chữ: Một tỷ, không trăm mười chín triệu, sáu trăm bảy mươi nghìn, hai trăm sáu mươi đồng), (trong đó tiền nợ gốc là 881.871.400đồng và lãi là 137.798.860đồng).

Khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong số tiền trên, bên có nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm trả theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005.

2. Về án phí: Buộc Công ty B nộp 42.590.107đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, sung công quỹ Nhà nước.

Hoàn lại Công ty A số tiền 19.900.683đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0009175 ngày 02 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đức Hòa.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

681
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 05/2022/KDTM-ST

Số hiệu:05/2022/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;