Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 23/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 184/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1993. Địa chỉ: thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trịnh Văn Đ, sinh năm 1993.

Địa chỉ: thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 27/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày: Chị và anh Trịnh Văn Đ tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2011 nhưng đến ngày 11/9/2012 mới đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn,nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, không hòa hợp nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng kéo dài đến năm 2017 mà không thể khắc phục được nên chị T và anh Đ đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị T đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trịnh Văn Đ.

Về con chung: Chị T khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Trịnh Công S, sinh ngày 08/7/2012, hiện nay cháu S đang ở với chị T. Chị T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu S, yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng) cho đến khi cháu S đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập anh Trịnh Văn Đ đến Toà án để viết bản khai nhưng anh Đ không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của anh Đ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị T đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh Đ và được trực tiếp nuôi dưỡng cháu S, yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu S đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81, 82, 83, khoản 1, Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Trịnh Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng anh Đ không có mặt mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh Đ cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, chị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị T và anh Đ là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Trịnh Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị T, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi chửi nhau. Kết quả xác minh ngày 11/01/2021 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị T và anh Đ là do anh Đ nghi ngờ chị T có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng cãi chửi nhau, đỉnh điểm là năm 2017, chị T và anh Đ xảy ra mâu thuẫn nên chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và sống ly thân với anh Đ cho đến nay. Một thời gian dàivợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ đời sống chung giữa chị T và anh Đ đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị T được ly hôn với anh Đ là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị Nguyễn Thị T khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Trịnh Công S, sinh ngày 08/7/2012. Chị T cũng xuất trình cho Tòa án bản sao chứng thực giấy khai sinh của cháu S, trong đó xác định cháu S là con chung của chị T và anh Đ nên đủ cơ sở khẳng định cháu S là con chung của chị T và anh Đ. Từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu S do chị T nuôi dưỡng, cháu S cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Để tránh xáo trộn về tâm lý cũng như việc học tập của cháu, giao cháu S cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, mức cấp dưỡng chị T yêu cầu là phù hợp với mức bình quân tại địa phương nên được chấp nhận.

[4]. Về tài sản: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T và anh Trịnh Văn Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.Điều 6; khoản 5, khoản 6,Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Trịnh Văn Đ.

2. Về con chung: Công nhận cháu Trịnh Công S, sinh ngày 08/7/2012 là con chung của chị T và anh Đ. Giao cháu S cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng), thời hạn cấp dưỡng nuôi con chung tính từ tháng 5 năm 2021 cho đến khi cháu S đủ 18 tuổi..

Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh Đ không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị T.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0009233 ngày 29/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung, chị T đã nộp đủ tiền án phí. Anh Trịnh Văn Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ.

4. Về quyền kháng cáo: Chị T, anh Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 23/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;