Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 22/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 01/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Mai Thị D, sinh năm 1985.

Địa chỉ: thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trịnh Đức B, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn N, xã Hà B, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 06/01/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Mai Thị D trình bày: Chị và anh Trịnh Đức B kết hôn hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H (nay là xã Y), huyện Hà T, tỉnh T ngày 21/01/2010. Vợ chồng chung sống đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống và kinh tế nên thường xuyên cãi chửi nhau. Do không chịu đựng được nên chị D và anh B đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2019 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau.

Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị D đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trịnh Đức B.

Về con chung: Chị D khai, vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Trịnh Đức T, sinh ngày 21/02/2011 và cháu Trịnh Minh Q, sinh ngày 24/3/2017. Chị D đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu T và Q, không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị, hiện chị làm lao động tự do tại gia đình, thu nhập hàng tháng khoảng 10 triệu đồng.

Về tài sản: Chị Mai Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong biên bản lấy lời khai đề ngày 01/02/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Trịnh Đức B trình bày: anh và chị Mai Thị D tự nguyệnkết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H (nay là xã Y), huyện H, tỉnh T ngày 21/01/2010. Vợ chồng chung sống đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống và chị D có quan hệ ngoại tình với người khác dẫn đến vợ chồng cãi chửi nhau. Anh B và chị D đã sống ly thân từ ngày 05 tháng 02 năm 2021 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay chị D đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh B không đồng ý.

Về con chung :Anh B khai, vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Trịnh Đức T, sinh ngày 21/02/2011 và cháu Trịnh Minh Q, sinh ngày 24/3/2017. Anh B đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu T và Q, không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh, hiện anh làm nghề cơ khí, thu nhập hàng tháng khoảng 15 triệu đồng.

Về tài sản: Anh Trịnh Đức B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 19/5/2021, chị Mai Thị D đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Trịnh Đức B và đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trịnh Minh Q, giao cháu Trịnh Đức T cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, chị D và anh B không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Toà án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D và giao cháu Trịnh Minh Q cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Trịnh Đức T cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, chị D và anh B không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Trịnh Đức B đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng anh B không có mặt mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh B cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, chị D vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị D, anh B là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân:Chị Mai Thị D và anh Trịnh Đức B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Kết quả xác minh ngày 04/02/2021 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, chị D và anh B chung sống đến những năm gần đây thì xảy ra mâu thuẫn, chính quyền địa phương đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành, chị D và anh B đã sống ly thân từ tháng 2/2021 cho đến nay. Như vậy,đời sống chung giữa chị D và anh B luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột, mâu thuẫn giữa vợ chồng đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị D được ly hôn với anh B là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị D và anh B thừa nhận vợ chồng có 02 con chung, các cháu tên làTrịnh Đức T, sinh ngày 21/02/2011 và cháu Trịnh Minh Q, sinh ngày 24/3/2017. Chị D đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q, giao cháu T cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng. Do cháu Q còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ, vì vậy giao cháu Q cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, chị D và anh B không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về tài sản: Chị Mai Thị D và anh Trịnh Đức B không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Mai Thị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Mai Thị D và anh Trịnh Đức B.

2. Về con chung: Công nhận các cháu Trịnh Đức T, sinh ngày 21/02/2011 và cháu Trịnh Minh Q, sinh ngày 24/3/2017 là con chung của chị D và anh B. Giao cháu Q cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, chị D và anh B không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị D, anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.Chị D, anh B không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Mai Thị D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị D đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009280 ngày 07/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị D đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị D, anh B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 22/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;