Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 185/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 185/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 30/9/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 230/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 31/8/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 15/9/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn 3, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Hoàng Văn N, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn 3, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt tại phiên tòa mặc dù đã được triệu tập hợp lệ hai lần).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, chị Đặng Thị T trình bày:

Chị và anh Hoàng Văn N kết hôn năm 2009, trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu, không bị cưỡng ép, lừa dối kết hôn, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương và đăng ký kết hôn ngày 07/5/2009 tại UBND xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn vợ chồng làm ăn sinh sống tại Thôn 3, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến giữa năm 2018 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống và kinh tế trong gia đình, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Chị và anh N ly thân từ năm 2018 đến nay, mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không được, chị xác định không còn tình cảm với anh N, mâu thuẫn không hòa giải được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn N.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là Hoàng Phi H, sinh ngày 16/5/2008 và Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 29/7/2011, chị đề nghị Tòa án giao cả hai cháu cho chị trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị không đề nghị anh N phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị xác định không có tài sản, đất đai vay nợ chung, không đề nghị Toà án giải quyết.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã báo gọi anh Hoàng Văn N đến để giải quyết vụ án nhưng anh N đều không có mặt. Qua xác minh tại gia đình bà Leo Thị Đ (mẹ đẻ của anh N), bà Đô cho biết: Anh Hoàng Văn N và chị Đặng Thị T kết hôn năm 2009 trên tinh thần tự nguyện và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, sau kết hôn anh N và chị T sinh sống cùng gia đình bà tại Thôn 3, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do kinh tế gia đình khó khăn, bất đồng quan điểm sống,vợ chồng thường hay đánh cãi chửi nhau. Hiện nay chị T có đơn xin ly hôn bà đề nghị Tòa án giải quyết cho chị T và anh N được ly hôn vì thấy không hòa giải được nữa. Chị T và anh N có 02 con chung là Hoàng Phi H, sinh ngày 16/5/2008 và Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 29/7/2011, nếu anh N và chị T ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị T và anh N không có tài sản, đất đai, vay nợ chung. Về việc Tòa án thông báo cho anh N đến để làm việc, bà đều thông báo cho anh N biết nhưng anh N đi làm ăn, khi về thăm nhà có nói lại là không lên, để Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Xác minh tại địa phương, ông Phạm Văn T (trưởng thôn 3 Việt Thành) cho biết: Anh Hoàng Văn N và chị Đặng Thị T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn 3, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, anh N và chị T được tự do tìm hiểu, được gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc, quá trình chung sống vợ chồng dần có mâu thuẫn, xích mích, đỉnh điểm là năm 2018 nguyên nhân là do kinh tế gia đình khó khăn, anh N thường ghen tuông vô cớ với chị T. Từ năm 2018 thì chị T và anh N ly thân cho đến nay. Chị T và anh N có 02 con chung là Hoàng Phi H, sinh ngày 16/5/2008 và Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 29/7/2011, hai cháu sinh sống với bà Leo Thị Đô (bà nội của 02 cháu) và chị T, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, cháu A bị bệnh teo não, được nhận bảo trợ xã hội của Nhà nước. Về tài sản, đất đai, vay nợ chung là việc riêng của mỗi gia đình nên không nắm được.

Anh N đi làm ăn, khoảng một, hai tháng vẫn về thăm gia đình, nhưng lại đi ngay, địa chỉ cụ thể anh N không khai báo nên không biết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Xử cho chị Đặng Thị T được ly hôn với anh Hoàng Văn N; giao 02 con chung là cháu Hoàng Phi H, sinh ngày 16/5/2008 và Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 29/7/2011 cho chị Đặng Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hoàng Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con chung; chị Đặng Thị T phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo cung cấp của Thôn 3, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang thì anh Hoàng Văn N có hộ khẩu thường trú và vẫn sinh sống, tại Thôn 3, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập, anh N và gia đình anh N đã biết nhưng anh N không đến Tòa án để làm việc, đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình trốn tránh nghĩa vụ nên Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị T và anh Hoàng Văn N kết hôn với nhau trên cơ sở tự do tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do cả hai không cùng chung sống, không quan tâm đến nhau và đã ly thân từ năm 2018 đến nay nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Đặng Thị T xử cho chị T được ly hôn với anh Hoàng Văn N.

[2] Về con chung: Chị Đặng Thị T và anh Hoàng Văn N có 02 con chung là cháu Hoàng Phi H, sinh ngày 16/5/2008 và Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 29/7/2011, hiện đang ở cùng chị T. Tại bản tự khai, cháu Hoàng Phi H có nguyện vọng ở với mẹ, cháu Hoàng Thị Ngọc A bị bệnh không thể nhận thức. Xét nguyện vọng của chị T và ý kiến của cháu H là hợp lý, đồng thời căn cứ vào kết quả xác minh tại địa phương. Do đó, cần tuyên xử cho chị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung là cháu Hoàng Phi H, sinh ngày 16/5/2008 và Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 29/7/2011. Anh Hoàng Văn N được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh Hoàng Văn N không đến Tòa án làm việc nên không xác định được ý kiến của anh N về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, chị Đặng Thị T không đề nghị anh N phải cấp dưỡng nuôi con chung, ý kiến của chị T không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên cần chấp nhận.

[3] Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị Đặng Thị T xác định không có tài sản, đất đai, vay nợ chung, không đề nghị Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Đặng Thị T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị T được ly hôn với anh Hoàng Văn N.

2. Về con chung: Giao cháu Hoàng Phi H, sinh ngày 16/5/2008 và Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 29/7/2011 cho chị Đặng Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Hoàng Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở. Các bên có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

3. Về án phí: Chị Đặng Thị T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002241 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên. Chị Đặng Thị T đã nộp đủ tiền án phí.

Anh Hoàng Văn N không phải nộp án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 185/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:185/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;