Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 04/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC MÊ, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 16/03/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 16 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2022/TLST-HS ngày 01/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2022 đối với:

- Bị cáo: Nguyễn Công Đ; tên gọi khác: không; sinh ngày 26/6/1986 tại xã Y, huyện Y, tỉnh V; nơi cư trú: Tổ 3, thị trấn Y, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1961 và con bà: Đỗ Thị T, sinh năm 1962; có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; có vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1985 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền sự, tiền án: Không; Nhân thân: Không;

bị tạm giữ ngày 27/12/2021 đến ngày 05/01/2022. Hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn Y, huyện B, tỉnh Hà Giang (Có mặt).

- Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Nguyễn Hưng P; sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ 3, thị trấn Y, huyện B, tỉnh H (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 26/12/2021, tại đoạn km 51+100 Quốc lộ 34 thuộc địa phận thôn N, xã L, huyện B, tỉnh H, tổ công tác Công an huyện Bắc Mê tổ chức tuần tra phát hiện 01 ô tô tải có biểu hiện nghi vấn mang BKS: 88C - 186.29 nhãn hiệu KIA, màu sơn xanh đi từ hướng thành phố H vào huyện B, tỉnh Hà Giang. Tổ công tác tiến hành ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra; kết quả phát hiện trong thùng xe có 01 thùng bìa cát tông có chứa 12 hộp khối hình vuông màu đỏ có nhiều hoa văn, chữ nước ngoài (nghi là pháo nổ) và xác định lái xe là Nguyễn Công Đ, người ngồi cùng trên ca bin xe là Nguyễn Thị H (vợ của Đ). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong số vật chứng, đưa hai đối tượng cùng tang vật về cơ quan Công an huyện Bắc Mê để xác minh làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Công Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Ngày 23/12/2021 Đ sử dụng điện thoại di động (nhãn hiệu OPPO, màn hình cảm ứng, vỏ màu vàng, bên ngoài có ốp màu xanh lá cây) của mình để truy cập vào mạng xã hội “Facebook” xem tin tức bằng tài khoản mang tên “Nguyễn Đ”. Quá trình xem tin tức Đ thấy có 01 tài khoản facebook khác (không nhớ tên) đăng công khai video clip kèm số điện thoại 0928.138.593 với nội dung “Phục vụ pháo hoa chơi Tết, đám cưới” nên đã lưu số lại. Sau đó, Đ sử dụng số thuê bao 0918.622.292 gọi tới số điện thoại trên để xem người đó có pháo bán không (Đ xác định là giọng nói của đàn ông nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ) và được người đàn ông trả lời là có, Đ nói với người đàn ông trên nếu mua pháo sẽ liên lạc lại, sau đó tắt máy.

Tối ngày 25/12/2021, Đ gọi điện thoại cho ông Nguyễn Hưng P để mượn chiếc xe ô tô tải BKS: 88C-186.29, nhãn hiệu KIA, màu sơn xanh (vợ chồng ông Nguyễn Công Đ và Nguyễn Thị H đã bán cho ông P vào ngày 20/11/2021 với giá 300.000.000đ) chở hàng hóa đi bán ở chợ phiên tại xã P, huyện B và được ông P đồng ý.

Sáng ngày 26/12/2021, sau khi đến nhà ông P lấy xe và giấy tờ liên quan thì Đ bốc hàng hóa lên xe rồi cùng vợ điều khiển xe đi chợ phiên xã Phiêng Luông. Khoảng 14 giờ cùng ngày, Đ tiếp tục điều khiển xe đưa bà Hiền ra thành phố Hà Giang để khám mắt tại một phòng khám tư nhân. Đến khoảng 16 giờ 30 phút, khi đang đợi vợ thì Đ nảy sinh ý định mua pháo về đốt trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022 nên đã sử dụng điện thoại gọi lại số thuê bao 0928.138.593 để hỏi về giá tiền mua pháo. Quá trình trao đổi, người đàn ông trả lời nếu mua 01 thùng có 12 hộp pháo thì sẽ được giảm giá tiền từ 3.600.000đ (Ba triệu sáu trăm nghìn đồng) xuống 3.000.000đ (Ba triệu đồng) và Đ đồng ý mua 01 thùng. Hai người cùng thống nhất địa điểm mua bán pháo tại Km40 thuộc thôn P, xã L, huyện B, tỉnh H rồi tắt máy. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Đ điều khiển xe ô tô cùng vợ đi về nhà, khi đến gần điểm hẹn thì Đ gọi điện cho người đàn ông mang số pháo ra đợi, người đàn ông cho biết là đến Km 40 sẽ có người đưa pháo cho Đ. Khi đi qua khu vực chợ thuộc thôn P, xã L, huyện B khoảng 500 m thì Đ thấy 01 xe máy dựng ven đường, Đ điều khiển xe đi qua khoảng 20 m và dừng xe đứng đợi. Khoảng 05 phút sau thì có 01 người đàn ông không quen biết mặc áo mưa trùm, đội mũ bảo hiểm và đeo khẩu trang đến hỏi “Anh mua pháo phải không”, Đ trả lời “Ừ”, người đàn ông nói với Đ “Anh đưa tiền cho em, em khác đưa hàng cho”. Đ đưa số tiền là 3.000.000đ (Ba triệu đồng) cho người đàn ông, sau khi đếm đủ số tiền, Đ đi ra phía sau xe mở cửa thùng xe cho người đàn ông mang số pháo lên xe, tiếp đó Đ đóng cửa thùng xe phía sau và điều khiển xe đi về nhà. Khi Đ đi đến Km 51+100, Quốc lộ 34 thuộc thôn N, xã L, huyện B thì bị tổ Công tác Công an huyện Bắc Mê kiểm tra và bắt quả tang.

Ngày 27/12/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Mê đã tiến hành mở niêm phong và cân tịnh 12 hộp nghi là pháo đã thu giữ (kích thước 14 cm x14 cm x 15 cm, bên ngoài có giấy màu đỏ, nhiều hoa văn và chữ nước ngoài) có tổng trọng lượng là 17 kg. Cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Mê đã gửi 01 hộp (kí hiệu M1) cho Phòng kỹ thuật hình sự PC 09 Công an tỉnh Hà Giang để xác định mẫu vật gửi giám định có phải là pháo nổ hoặc pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ không?), 11 hộp còn lại đã tiến hành niêm phong và bảo quản theo quy định.

Tại bản Kết luận giám định số 19/KL-PC09 ngày 01/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự PC 09 Công an tỉnh Hà Giang kết luận: Mẫu vật gửi giám định ký hiệu M1 là pháo nổ (pháo hoa nổ).

Ngày 05/01/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Mê đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú với Nguyễn Công Đ về tội Vận chuyển hàng cấm theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tang vật thu giữ gồm:

- 01 thùng bìa cát tông (đã được niêm phong theo quy định) bên trong có 11 (Mười một) hộp khối hình vuông kích thước 14 x 14 x 15 cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, có chữ nước ngoài (Là pháo nổ).

- 01 thùng bìa cát tông, niêm phong kín băng dính trong suốt và các giải giấy màu trắng, một mặt hộp bìa có ghi dòng chữ “Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu M1” trên niêm phong có hình dấu tròn đỏ của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang.

- 01 chiếc xe ô tô tải, Biển kiểm soát: 88C-186.29 màu sơn xanh, nhãn hiệu KIA xe đã qua sử dụng kèm theo 01 chìa khóa.

- 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO, màn hình cảm ứng, vỏ màu vàng, có ốp nhựa bên ngoài màu xanh lá cây (đã qua sử dụng).

- 01 Giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT.

- 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số: 056680.

- 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô.

- 01 Giấy phép lái xe hạng B2 số 080188010370 mang tên Nguyễn Công Đ.

Quá trình điều tra xác định một số đồ vật, tài liệu không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả cho chủ sở hữu gồm: Trả cho ông Nguyễn Hưng P 01 chiếc xe ô tô tải, Biển kiểm soát: 88C- 186.29 màu sơn xanh, nhãn hiệu KIA xe đã qua sử dụng kèm theo 01 chìa khóa;

01 Giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe số: 056680; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô.

Trả cho bị cáo Đ 01 Giấy phép lái xe hạng B2 số 080188010370 mang tên Nguyễn Công Đ.

Số vật chứng chưa xử lý gồm: 01 thùng bìa cát tông (đã được niêm phong theo quy định) bên trong có 11 hộp khối hình vuông kích thước 14x14x15cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, có chữ nước ngoài (Là pháo nổ); 01 thùng bìa cát tông, niêm phong kín băng dính trong suốt và các giải giấy màu trắng, một mặt hộp bìa có ghi dòng chữ “Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu M1” trên niêm phong có hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang đã được chuyển đến kho vật chứng của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Giang quản lý.

- 01 điện thoại di động, màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO, mặt sau điện thoại màu vàng, kính đèn led sau bị vỡ, có ốp nhựa bên ngoài màu xanh lá cây (đã qua sử dụng) đã gửi tại kho vật chứng Công an huyện Bắc Mê.

Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKSBM ngày 28/2/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố Nguyễn Công Đ về tội Vận chuyển hàng cấm theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Công Đ phạm tộiVận chuyển hàng cấm”.

- Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điều 38; điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 2, Điều 4 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Công Đ từ 16 tháng tù đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 32 tháng đến 36 tháng.

- Về hình phạt bổ sung: Không.

- Về trách nhiệm dân sự: Không.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 thùng bìa cát tông đã được niêm phong bên trong có 11 hộp khối hình vuông kích thước 14 x 14 x 15 cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, có chữ nước ngoài (Là pháo nổ); 01 thùng bìa cát tông, niêm phong kín băng dính trong suốt và các giải giấy màu trắng, một mặt hộp bìa có ghi dòng chữ “Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu M1” trên niêm phong có hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động, màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO, mặt sau điện thoại màu vàng, kính đèn led sau bị vỡ, có ốp nhựa bên ngoài màu xanh lá cây (đã qua sử dụng).

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Bị cáo Nguyễn Công Đ nhất trí với toàn bộ quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị, không có tranh luận đối đáp.

Bị cáo Nguyễn Công Đ thực hiện quyền nói lời sau cùng và xin giảm nhẹ hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Bắc Mê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Mê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan và người tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Do có ý định mua pháo nổ về để đốt trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022. Vào khoảng 21 giờ tối ngày 26/12/2021, khi điều khiển xe ô tô BKS: 88C-186.29 màu sơn xanh, nhãn hiệu KIA đi từ hướng thành phố H vào đến địa phận xã L, huyện B, bị cáo Nguyễn Công Đ đã mua 12 hộp pháo có tổng trọng lượng 17 kg được đựng trong 01 hộp bìa catton của một người đàn ông không quen biết với giá 3.000.000đ (ba triệu đồng) rồi chở về nhà, trên đường đi đến Km51+100, Quốc lộ 34 thuộc thôn N, xã L, huyện B thì bị Công an huyện Bắc Mê bắt quả tang. Như vậy, hành vi của bị cáo Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Mê truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là các tình tiết thuộc điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Hội đồng xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[4] Đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Xét hành vi của bị cáo gây ra là ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước đối với hàng cấm lưu hành, bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên bị cáo phải biết việc đốt pháo nổ là nguy hiểm và việc tàng trữ vận chuyển trái phép pháo nổ là hành vi bị nghiêm cấm, do đó cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm tương xứng với mức độ nguy hiểm mà hành vi của bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát, giáo dục của gia đình và chính quyền địa phương cũng đảm bảo được mục đích của hình phạt.

[5] Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo xử phạt tù nhưng được hưởng án treo nên hủy bỏ biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định tại Điều 125, 278 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[7] Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy, mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo về hình phạt, miễn hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho các chủ sở hữu những vật chứng không liên quan đến vụ án là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với 01 thùng bìa catton có 11 hộp khối hình vuông kích thước 14 x 14 x 15 cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, có chữ nước ngoài (Là pháo nổ); 01 thùng bìa cát tông, niêm phong kín băng dính trong suốt và các giải giấy màu trắng, một mặt hộp bìa có ghi dòng chữ “Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu M1” trên niêm phong có hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang là hàng hóa cấm tàng trữ, vận chuyển nên cần giao cho Công an huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang xử lý tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 điện thoại di động, màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO, mặt sau điện thoại màu vàng, kính đèn led sau bị vỡ, có ốp nhựa bên ngoài màu xanh lá cây (đã qua sử dụng) là phương tiện phạm tội mà bị cáo sử dụng để liên hệ mua pháo nổ, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[9] Trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Trong vụ án này có một số đối tượng liên quan: Đối với bà Nguyễn Thị H là vợ của bị cáo cùng ngồi trên cabin xe ô tô nhưng say xe nên ngủ và cũng không biết bị cáo Đ liên hệ mua và dừng mua pháo nổ dọc đường, do vậy không có căn cứ để xử lý đối với bà H. Đối với ông Nguyễn Hưng P là người cho bị cáo Đ mượn xe ô tô BKS: 88C-186.29 màu sơn xanh, nhãn hiệu KIA nhưng không biết việc bị cáo Đ sử dụng xe để chở pháo nên không có căn cứ để xử lý. Đối với người đàn ông đã bán và giao pháo nổ cho bị cáo Đ, hiện không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý đối với trường hợp này.

[11] Về án phí: Hội đồng xét xử căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 2, Điều 4 Nghị quyết số 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công Đ phạm tội Vận chuyển hàng cấm.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công Đ 16 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 32 tháng, thời hạn thử thách kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Công Đ cho Ủy ban nhân dân thị trấn Y, huyện B, tỉnh Hà Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Hủy bỏ ngay biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Nguyễn Công Đ.

2. Về hình phạt bổ sung: Không.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không.

4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 thùng bìa catton có 11 hộp khối hình vuông kích thước 14 x 14 x 15 cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, có chữ nước ngoài ( Là pháo nổ ); 01 thùng bìa cát tông, niêm phong kín băng dính trong suốt và các giải giấy màu trắng, một mặt hộp bìa có ghi dòng chữ “Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu M1” trên niêm phong có hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang. Hiện nay đang gửi tại kho vật chứng thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Giang, giao cho Công an huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang xử lý tiêu hủy số pháo trên theo quy định.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động, màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO, mặt sau điện thoại màu vàng, kính đèn led sau bị vỡ, có ốp nhựa bên ngoài màu xanh lá cây (đã qua sử dụng).

(Tình trạng như trong biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/3/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B với Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Công Đ chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Mê - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;