Bản án về tội trộm cắp tài sản số 69/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 69/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 68/2022/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐXXST-HS ngày 08/7/ 2022 đối với bị cáo: Phan T (tên gọi khác: B), giới tính: Nam; sinh ngày 07/02/1991 tại Quảng Trị; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu phố C, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: lớp 7/12; nghề nghiệp: Không có; con ông Phan Y (hiện không rõ ở đâu ) và con bà Lê Thị L, sinh năm 1960, nghề nghiệp: buôn bán, hiện trú tại Khu phố C, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; gia đình có 04 anh, chị, em, bị cáo là con út; chưa có vợ, con; tiền sự: không có.

- Tiền án: 03, cụ thể:

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ xử phạt 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HSST ngày 21/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với Bản án số 15/2018/HSST ngày 11/9/2018 là 16 tháng tù. Thi hành xong vào ngày 29/4/2020;

+ Bản án số 09/2021/HSST ngày 29/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thi hành xong hình phạt vào ngày 08/10/2021.

- Nhân thân:

+ Ngày 27/6/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thi hành xong ngày 27/12/2013.

+ Ngày 27/01/2017, bị Công an phường Đông Lương, thành phố Đông Hà ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/4/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đông Hà, có mặt.

- Bị hại: Ông Lê Cao C, trú tại khu phố T, phường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị,vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị L, sinh năm 1960; địa chỉ: Khu phố C, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 24/3/2022, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên Phan T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Tịnh điều khiển xe đạp hiệu ASAMA của bà Lê Thị L (là mẹ của bị cáo), đi dọc các tuyến đường trên địa bàn thành phố Đông Hà tìm nơi sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi đến đoạn đường Phạm Hồng Thái, thuộc khu phố Trung Chỉ, phường Đông Lương, thành phố Đông Hà, Phan T thấy 01 chiếc xe kéo đang để trên bãi đất trống, không có người trông coi. Phan T lén lút tiếp cận tài sản, kéo xe ra đường, gác càng xe kéo lên phần yên sau của xe đạp rồi điều khiển xe đạp kéo xe kéo đi. Khi đang đi trên đường Nguyễn Hữu Khiếu (thuộc phường Đông Lương, thành phố Đông Hà) thì bị tổ tuẩn tra Công an phường Đông Lương phát hiện và đưa về trụ sở Công an phường làm việc.

Tại bản Bản kết luận định giá tài sản số 30/KL-HĐĐGTS ngày 22/4/2022 của Hội đồng Định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 chiếc xe kéo đã qua sử dụng, kích thước dài 310cm (càng xe dài 140cm, thân xe dài 170cm), rộng 88cm, hai bánh xe có đường kính 60cm/bánh, tay kéo ngang dài 71cm- tài sản bị chiếm đoạt trong vụ Trộm cắp tài sản xảy ra ngày 24/3/2022 trị giá 1.500.000 đồng.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:

+ 01 xe kéo, kích thước dài 310cm (càng xe dài 140cm, thân xe dài 170cm), rộng 88cm, hai bánh xe có đường kính 60cm/bánh, tay kéo ngang dài 71cm, đã qua sử dụng.

+ 01 xe đạp hiệu ASAMA, màu xanh lá cây, đã qua sử dụng;

Tại bản Cáo trạng số 72/CT-VKS-ĐH ngày 20 tháng 6 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đã truy tố bị cáo Phan T (tên gọi khác: B) về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phan T (tên gọi khác: B) phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 173; Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo cáo Phan T (tên gọi khác: B) từ 9 đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Bị hại là anh Lê Cao C đã nhận lại tài sản, bà Lê Thị L đã nhận lại chiếc xe đạp hiệu ASAMA, màu xanh lá cây, không ai có yêu cầu gì, nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phan T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 21 giờ 30phút ngày 24/3/2022, Phan T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của người khác. Tài sản Phan T chiếm đoạt được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: có trị giá 1.500.000 đồng. Mặc dù, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nhưng Phan T đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Như vậy, hành vi của bị cáo Phan T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Điều luật quy định khung hình phạt: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] Xét về tính chất hành vi của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo là một thanh niên có sức khỏe, có nhận thức pháp luật, đã nhiều lần bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không cải tạo sửa chữa để trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội, mà tiếp tục cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm minh với hình phạt tù có thời hạn nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, gia thuộc hộ nghèo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để một giảm phần hình phạt cho bị cáo.

Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần phải ban hành quyết định tạm giam để đảm bảo thi hành án.

[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Lê Cao C 01 xe kéo, kích thước dài 310cm (càng xe dài 140cm, thân xe dài 170cm), rộng 88cm, hai bánh xe có đường kính 60cm/bánh, tay kéo ngang dài 71cm, đã qua sử dụng; trả cho bà Lê Thị L 01 xe đạp hiệu ASAMA, màu xanh lá cây, đã qua sử dụng. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản, không ai có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Phan T (tên gọi khác: B) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 173; Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Bộ luật hình sự Xử phạt: Phan T (tên gọi khác: B): 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/4/2022.

2. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Bị hại , người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 69/2022/HS-ST

Số hiệu:69/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;