Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T U, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24/3/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T U, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2022/TLST- HS, ngày 09/3/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:30/2022/QĐXXST- HS ngày 01/3/2022 đối với các bị cáo:

L V Q - sinh ngày 20/8/19xx, tại T U, Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản Ít, xã Mường M, huyện T U, tỉnh Lai Châu; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: L V D - sinh năm 1962; Con bà: L T T - sinh năm 1963; Gia đình bị cáo có 05 chị, em, bị cáo là con thứ tư;

Vợ: T T T - sinh năm 1998; Bị cáo có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo tự thú và bị tạm giữ từ 13 giờ 30 phút ngày 01/01/2022, đến ngày 09/01/2022 được áp dụng lện cấm đi khỏi nơi cư trú.( có mặt tại phiên tòa).

Q V A - sinh ngày 01/01/19xx, tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản M P 1, xã M P, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Tm Trú: Bản Ít, xã Mường M, huyện T U, tỉnh Lai Châu; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông: Quàng Văn An - sinh năm 1955; Con bà: Lường Thị Xuân - sinh năm 1959; Gia đình có 04 anh, em; bị cáo là con thứ tư; Vợ: Lò Thị On – sinh năm 1991; Bị cáo có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ 16 giờ 00 phút ngày 01/01/2022, đến ngày 09/01/2022 được áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.( có mặt tại phiên tòa).

L V D - sinh ngày 17/9/19xx, tại T U, Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản Ít, xã Mường M, huyện T U, tỉnh Lai Châu; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông: Lò Văn K - sinh năm 19xx; Con bà: Lò Thị E - sinh năm 19xx; Gia đình bị cáo có 04 anh, em, bị cáo là con thứ nhất;

Vợ: L T H - sinh năm 19xx; Bị cáo có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ 15 giờ 00 phút ngày 01/01/2022, đến ngày 09/01/2022 được áp dụng lện cấm đi khỏi nơi cư trú.( có mặt tại phiên tòa).

T V M - sinh ngày 01/01/19xx, tại T U, Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản Ít, xã Mường M, huyện T U, tỉnh Lai Châu; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Con ông: Tòng Văn P (đã chết); Con bà: Hoàng Th P - sinh năm 19xx; Gia đình bị cáo có 06 anh, em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Lù T H - sinh năm 19xx; Bị cáo có 03 con; Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ 15 giờ 45 phút ngày 01/01/2022, đến ngày 09/01/2022 được áp dụng lện cấm đi khỏi nơi cư trú.( có mặt tại phiên tòa).

-Đại diện nguyên đơn dân sự: anh Ngô Đức T – sinh năm 19xx. Trú tại: Xóm V S, xã T D, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Tạm trú: Bản Ít, xã Mường M, huyện T U, tỉnh Lai Châu.

(Vắng mặt tại phiên tòa có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ti ngày 27/12/2021, Q V A, L V D, T V M ăn cơm tại nhà L V Q thuộc bản Ít, xã Mường M, huyện T U, tỉnh Lai Châu. Do biết Q V A là công nhân đang làm ở công trường thủy điện Mường M nên L V Q nói với Q V A: Khi nào trong công trường thủy điện không có người thì gọi tôi vào lấy sắt vụn. Q V A đồng ý, trong lúc Quân và Anh nói chuyện có L V D, T V M ngồi cùng mâm nghe thấy. Đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 29/12/2021, Q V A đi làm ca đêm trong hầm thủy điện Mường M, thấy trước cửa hầm không có người, Anh đã gọi điện cho Quân nói: Dưới hầm thủy điện đang không có ai, đi vào đây lấy được gì thì lấy. Ngay sau khi được Anh cho biết trong cửa hầm thủy điện không có người, Quân mang theo 01 túi đeo được làm bằng bao tải xác rắn và gọi điện cho L V D rủ đi trộm cắp. Đồng thời, Quân đi sang nhà T V M rủ thêm Man cùng đi trộm cắp. Quân, Viện, Man đi bộ qua suối Nậm Mít đến công trường thủy điện Mường M thuộc bản Lào, xã Mường M, huyện T U do Công ty cổ phần đầu tư xây dựng cơ khí Đồng Tâm có trụ sở tại tổ dân phố Nhuệ Giang, phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đang thi công. Khi Quân, Viện, Man vừa đến mặt đập thủy điện thì Q V A gọi điện thoại hỏi: Đến nơi chưa ?, dưới cửa hầm xả thủy lực hiện không có người. Nghe Anh nói vậy, Quân, Viện, Man cùng đi xuống cửa hầm xả thủy lực thấy có 01 bình gas nhãn hiệu TPH PETRO màu xanh và 01 máy hàn điện nhãn hiệu DATYSO MAG-500 màu da cam đặt ở trước cửa hầm. Man lấy bình gas vác lên vai đi lên mặt nền nhà máy, sau đó Quân và Viện cũng theo sau Man lên mặt nền thủy điện. Do máy hàn có điện nên không lấy trộm được, Quân đã gọi điện cho Anh bảo Anh ngắt điện máy hàn và lấy cho Quân 01 cái kìm để cắt dây hàn. Q V A đồng ý lấy 01 cái kìm rồi đi ra ngoài cửa hầm ngắt cầu dao điện và để lại chiếc kìm gần vị trí máy hàn rồi đi vào trong hầm nhắn tin cho Quân biết và tiếp tục làm việc. Sau khi nhận được tin nhắn từ Q V A, Quân, Viện, Man cùng nhau đi xuống cửa hầm thủy điện thấy 01 cái kìm ở gần máy hàn. Quân cầm kìm còn Viện kéo dây hàn để Quân dùng kìm cắt, Man cuộn dây hàn cho vào túi đeo mà Quân mang theo đưa cho Viện đi lên trước. Quân và Man thay nhau vác máy hàn lên mặt nền thủy điện. Sau đó, Viện đeo túi dây hàn về để ở nhà bếp nhà L V Q. Quân vác bình gas, Man vác máy hàn đi về cất giấu bình gas dưới sàn nhà và giấu máy hàn ở đống rơm sau nhà T V M. Sau đó, Quân đi về nhà thấy túi dây hàn do Viện để ở cửa bếp, Quân đã mang cất giấu trong kho thóc nhà mình.

Đến sáng ngày 01/01/2022, nhận thức được hành vi của mình là sai trái nên L V Q đến Công an xã Mường M, huyện T U tự thú. Ngay sau đó, L V D, T V M, Q V A cũng ra đầu thú.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện T U thu giữ vật chứng của L V Q 17,5 m dây hàn điện; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO cùng 01 sim và 01 ốp điện thoại; 01 túi đeo được làm bằng bao tải. Thu giữ của T V M 01 máy hàn nhãn hiệu DATYSO MAG-500 và 01 bình gas nhãn hiệu TPH PETRO. Thu giữ của L V D 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG và 01 sim điện thoại. Thu giữ của Q V A 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO cùng 02 sim và 01 ốp điện thoại. Đối với chiếc kìm, Anh đưa cho Quân dùng cắt dây máy hàn, Quân khai vứt lại tại hiện trường, Cơ quan điều tra đã tiền hành truy tìm nhưng không hồi được. Cơ quan điều tra đã phối hợp với Viện kiểm sát cho L V Q, L V D, T V M, Q V A tiến hành thực nghiệm điều tra theo lời khai báo. Kết quả thực nghiệm phù hợp với lời khai báo của các bị can và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được. Cơ quan điều tra đã thu giữ dữ liệu nội dung tin nhắn và lịch sử cuộc gọi điện thoại trong điện thoại di động của Q V A, L V Q Tại bản Kết luận định giá tài sản số 01/HĐ - ĐGTS ngày 08/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện T U kết luận: 01 máy hàn nhãn hiệu DATYSO MAG-500 và 17,5 m dây hàn có giá trị 16.000.000 đồng; 01 bình ga nhãn hiệu TPH PETRO, trọng lượng bình 23,6 kg có giá trị 368.600 đồng. Tổng trị giá tài sản các bị can chiếm đoạt là 16.368.600 đồng (BL: 49 - 50 Kết luận định giá tài sản).

Về vật chứng của vụ án Ngày 12/01/2022, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 máy hàn, 17,5m dây hàn và 01 bình gas cho ông Ngô Đức Toàn là người đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng cơ khí Đồng Tâm.

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, 01 sim điện thoại, 01 ốp lưng điện thoại, 01 túi đeo được làm bằng bao tải thu giữ của L V Q; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG và 01 sim điện thoại thu giữ của L V D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, 02 sim điện thoại và 01 ốp lưng điện thoại thu giữ của Q V A, hiện số vật chứng trên đang được lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện T U.

Về trách nhiệm dân sự Ngưi đại diện cho bị hại ông Ngô Đức Toàn đã được nhận lại những tài sản bị mất và không yêu cầu các bị can bồi thường.

Tại bản cáo trạng số: 18/CT-VKS, ngày 08/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T U đã truy tố các bị cáo L V Q; Q V A; L V D; T V M về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 - Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T U giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá tính chất, vai trò, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo L V Q; Q V A; L V D; T V M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt đề nghị: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 58; Điều 36 ; điểm r, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo L V Q từ 24 đến 30 tháng cải tạo không giam giữ. Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 58; Điều 36 ; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Q V A từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ. Xử phạt bị cáo L V D từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ. Xử phạt bị cáo T V M từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ.

Khấu trừ 09 tạm giữ, quy đổi thành 27 ngày cải tạo không giam giữ cho các bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự là phạt tiền đối với các bị cáo. Vì hoàn cảnh kinh tế của các bị cáo đều khó khăn.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử người đại diện nguyên đơn dân sự đã được nhận tại tài sản bị mất, nay không yêu cầu bồi thường gì thêm. Nên không đề cập giải quyết.

Về án phí, về vật chứng của vụ án. Đề nghị HĐXX xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo có cơ hội tự tu dưỡng rèn luyện mình thành người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T U, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân huyện T U, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người đại diện nguyên đơn dân sự không có ý kiến, khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó Hội đồng xét xử khẳng định các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay, hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người đại diện nguyên đơn dân sự cũng như nội dung Cáo trạng truy tố. Một lần nữa khẳng định: Đêm ngày 29/12/2021, rạng sáng ngày 30/12/2021, tại công trường thủy điện Mường M thuộc địa phận bản Lào, xã Mường M, huyện T U, tỉnh Lai Châu, L V Q, L V D, T V M, Q V A đã trực hiện trộm cắp, chiếm đoạt 01 máy hàn; 17,5 m dây hàn và 01 bình gas của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng cơ khí Đồng Tâm có tổng giá trị 16.368.600 đồng, nhằm mục đích là để bán lấy tiền chia nhau tiêu sài.

Hành vi của các bị cáo L V Q, L V D, T V M, Q V A thực hiện đã cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, đã xâm hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do vậy các bị cáo phải chịu một hình phạt tương xứng với vai trò, hành vi phạm tội của mình gây ra.

[3] Xét về tính chất, vai trò, mức độ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo thấy rằng: Để có tiền tiêu sài, các bị cáo đã rủ nhau cùng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng cơ khí Đồng Tâm có tổng giá trị 16.368.600 đồng. Trong vụ án này bị cáo L V Q là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác và người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm với vai trò chính và chịu hình phạt cao hơn.

Tiếp đến bị cáo Q V A, khi được bị cáo Quân rủ rê không những không ngăn cản mà còn lợi dụng mình được Công ty giao trông coi tài sản đã tạo các điều kiện như: Chủ động gọi điện, chỉ dẫn nơi có tài sản, công cụ phạm tội, ngắt cầu dao điện...để cho các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm ở vai trò thứ hai trong vụ án.

Đi với các bị cáo L V D; T V M là những người được Quân rủ rê thì đã đồng ý ngay và là người tạo động lực về tinh thần, là người thực hiện hành vi phạm tội trực tiếp, tích cực. Nên hai bị cáo cũng phải chịu một hình phạt tương xứng với vai trò, hành vi phạm tội của mình.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, đến ngày 01/01/2022 bị cáo L V Q đã nhận ra lối lầm của mình rồi đến Cơ quan điều tra tự thú, các bị cáo còn lại cũng đến Cơ quan điều tra đầu thú, khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử nhận thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, là người dân tộc sự hiểu biết về pháp luật hạn chế. Nên cần cho các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tương ứng với từng bị cáo được quy định tại các điểm ở khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xét không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ mọi điều kiện để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành công dân tốt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử người đại diện nguyên đơn dân sự đã được nhận tại tài sản bị mất, nay không yêu cầu bồi thường gì thêm. Nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về vật chứng của vụ án gồm có: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, 01 sim điện thoại, 01 ốp lưng điện thoại, 01 túi đeo được làm bằng bao tải thu giữ của L V Q; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG và 01 sim điện thoại thu giữ của L V D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, 02 sim điện thoại và 01 ốp lưng điện thoại thu giữ của Q V A. Xét thấy 01 túi đeo được làm bằng bao tải thu giữ của L V Q là vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Các vật chứng còn lại do các bị cáo dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội, nên cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân huyện T U đã được áp dụng đối với các bị cáo.

[8] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc các bị cáo L V Q; Q V A; L V D; T V M mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh Tuyên bố các bị cáo L V Q; Q V A; L V D; T V M phạm tội“Trộm cắp tài sản".

2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 58; Điều 36;

điểm r, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo L V Q 20 (hai mươi) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 09 ngày tạm giữ, quy đổi thành 27 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo còn lại là 19 tháng 03 ngày được tính từ ngày UBND xã Mường M, huyện T U nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 58; Điều 36; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Q V A 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 09 ngày tạm giữ, quy đổi thành 27 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo còn lại là 17 tháng 03 ngày được tính từ ngày UBND xã M P, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

- Xử phạt bị cáo L V D 16 (mười sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 09 ngày tạm giữ, quy đổi thành 27 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo còn lại là 15 tháng 03 ngày được tính từ ngày UBND xã Mường M, huyện T U nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

- Xử phạt bị cáo T V M 16 (mười sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 09 ngày tạm giữ, quy đổi thành 27 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo còn lại là 15 tháng 03 ngày được tính từ ngày UBND xã Mường M, huyện T U nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Các bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 99;100;101 Luật thi hành án hình sự.

Giao các bị cáo L V Q; L V D; T V M cho UBND xã Mường M, huyện T U giám sát giáo dục. Giao bị cáo Q V A cho UBND xã M P, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên giám sát giáo dục.

Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền xã trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Do các bị cáo L V Q; Q V A; L V D; T V M không có thu nhập ổn định, nên miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

3. Về vật chứng Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 túi đeo được làm bằng bao tải thu giữ của L V Q.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, 01 sim điện thoại, 01 ốp lưng điện thoại thu giữ của L V Q; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG và 01 sim điện thoại thu giữ của L V D;

01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, 02 sim điện thoại và 01 ốp lưng điện thoại thu giữ của Q V A.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện T U lập ngày 22/3 /2022).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc các bị cáo L V Q; Q V A; L V D; T V M mỗi người phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Báo cho các bị cáo biết trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho người đại diện nguyên đơn dân sự biết trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định. Có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;