Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 100/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 100/2021/HS-PT NGÀY 23/02/2021 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 23 tháng 02 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 44/2021/TLPT-HS ngày 13 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 141/2020/HS-ST ngày 25 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo:

NGUYỄN VĂN T, sinh năm: 1984; giới tính: Nam; ĐKNKTT và nơi ở: huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Văn  và bà Trần Thị U; vợ: Hà Thị O có 02 con sinh năm 2006 và 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 17/7/2020 đến 24/7/2020; có mặt.

Trong vụ án còn có các bị cáo: Nguyễn Tuấn A, Nguyễn Văn N không kháng cáo, không bị kháng nghị tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tuấn A và Nguyễn Văn N là các đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp ổn định nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để có tiền tiêu sài cá nhân và mua ma túy để sử dụng. Trong tháng 7/2020, Tuấn A và N đã cùng nhau thực hiện 03 vụ trộm cắp xe môtô; Tuấn A một mình thực hiện 02 vụ trộm cắp xe môtô; N một mình thực hiện 01 vụ trộm cắp xe môtô đều trên địa bàn huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội.

Nguyễn Văn T đã 04 lần tiêu thụ tài do Nguyễn Tuấn A và Nguyễn Văn N trộm cắp được, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 05h00’ ngày 05/7/2020, Nguyễn Văn N trộm cắp 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Dream màu nâu của chị Hà Thị L dựng ở trên đường, chìa khóa vẫn cắm ổ điện và không có người trông giữ. Sau đó N tháo biển kiểm soát của xe rồi điều khiển đến cửa hàng sửa chữa, mua bán xe máy “Văn T”, địa chỉ: huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội do Nguyễn Văn Tuấn là chủ quán. Tại đây, Nam hỏi T “có mua xe máy không?”, T trả lời “có mua” và hỏi lại “xe có giấy tờ không?”, N trả lời “xe nhảy anh ạ” ý nói là xe trộm cắp được, T hiểu và đồng ý mua. T kiểm tra xe rồi thỏa thuận mua xe với giá là 500.000 đồng, N đồng ý. Sau đó, hai bên giao dịch mua bán chiếc xe trên. N nhận tiền rồi tiêu sài cá nhân hết. Sau khi mua được chiếc xe, T sửa chữa và thay yếm xe. Đến ngày 10/7/2020, T bán lại chiếc cho anh Hà Văn H với giá 1.400.000 đồng để làm phương tiện đi lại.

Vụ thứ hai: Khoảng 04h00’ ngày 08/7/2020, Nguyễn Tuấn A và Nguyễn Văn N cùng trộm cắp 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu SYM ANGEL màu xanh của chị Lưu Thị Ư dựng trên đường tại cánh đồng, không có người trông giữ. Sau khi phá được khóa điện, Tuấn A nổ máy, điều khiển xe môtô chở N ngồi phía sau đến quán sửa chữa, mua bán xe máy “Văn T” của Nguyễn Văn T để bán chiếc xe máy vừa trộm cắp được. Khi gần đến quán, Tuấn A xuống xe đứng đợi ở ngoài, N điều khiển xe vào quán gặp T. Nguyễn Văn T kiểm tra xe phát hiện ổ khóa điện bị phá và không có giấy tờ; T hiểu đây là xe trộm cắp được nên đã mua chiếc xe với giá 450.000 đồng.

Vụ thứ ba: khoảng 4h00’ ngày 09/7/2020, Nguyễn Tuấn và Nguyễn Văn N cùng nhau trộm cắp 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave màu Cam đen bạc của chị G không khóa cổ, khóa càng. Sau khi tháo biển kiểm soat, Tuấn A điều khiển xe một mình đến cửa hàng sửa chữa, mua bán xe máy “Văn T” của Nguyễn Văn T để bán xe, còn N cầm biển kiểm soát của xe đem về nhà cất giấu. T kiểm tra xe rồi mua chiếc xe với giá 800.000 đồng.

Vụ thứ tư: khoảng 4h00’ ngày 11/7/2020, Nguyễn Tuấn A và Nguyễn Văn N cùng trộm cắp 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh của anh Nguyễn Văn V dựng ở trên đường, chìa khóa vẫn cắm ổ điện và không có người trông giữ. Sau khi lấy được Tuấn A chở N ngồi phía sau đi đến quán sửa chữa, mua bán xe máy “Văn T” của Nguyễn Văn T. T kiểm tra xe xong rồi mua chiếc xe với giá 600.000 đồng.

Nguyễn Tuấn A còn một mình thực hiện hai hành vi trộm cắp xe máy nhưng bán cho người không quen biết.

Tại cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Văn T:

+ 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, không đeo BKS, có SM: 535292; SK: 023609 đã qua sử dụng.

+ 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, SM: 0436008; SK: 436112 đã qua sử dụng.

+ 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SYM Angel màu xanh, không đeo BKS, SM: VMEM5B204324, SK: EACE113ME204324 đã qua sử dụng.

+ 01 bộ vỏ nhựa xe máy nhãn hiệu HondaWave RS màu đen, cam, bạc đã qua sử dụng.

- Thu giữ của chị Nguyễn Thị O (vợ của Nguyễn Văn T) tự nguyện giao nộp: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, không đeo BKS, SM: HA08E1640293, SK: HLHHA0807AI040244 đã qua sử dụng.

Tại Thông báo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 51/TBKL- HĐĐG ngày 22/7/2020 của hội đồng định giá tài sản huyện Mê Linh kết luận: 01 xe máy Honda Dream màu nâu; SK: 040244, SM: 1340293 đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm bị xâm hại là 5.000.000 đồng.

Tại Thông báo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 48/TBKL- HĐĐG ngày 22/7/2020 của hội đồng định giá tài sản huyện Mê Linh kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu SYM Angel màu xanh; SK: EACE113ME204324; SM: VMEM5B204324 đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm bị xâm hại là 1.700.000 đồng.

Tại Thông báo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 49/TBKL- HĐĐG ngày 22/7/2020 của hội đồng định giá tài sản huyện Mê Linh kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu cam đen bạc; SM: HC12E0535292; SK: 12278Y023609 đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm bị xâm hại là 4.500.000 đồng.

Tại Thông báo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 50/TBKL- HĐĐG ngày 22/7/2020 của hội đồng định giá tài sản huyện Mê Linh kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh; SM: HC08E0436008; SK:HHC08042Y436112 đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm bị xâm hại là 3.000.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản Nguyễn Văn T tiêu thụ 4 xe máy là 14.200.000 đồng, đã thu giữ được 03 xe tại nhà bị cáo, còn xe bị cáo đã bán cho anh Hà Văn H với giá 1.400.000 đồng, bị cáo đã trả anh H 1.400.000 khắc phục hậu quả lấy xe về nộp tại cơ quan điều tra để trả lại cho bị hại.

Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 141/2010/HSST ngày 25/11/2020 Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Áp dụng: Khoản 1 điều 323; điểm i,s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 15(mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ 17/7/2020 đến 24/7/2020.

Ngoài ra bản án còn quyết định hình phạt của các bị cáo khác trong vụ án, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/12/2020 bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm hình phạt và được hưởng án treo Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:

Căn cứ lời khai của các bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ thì tòa án sơ thẩm đã xét xử Nguyễn Văn T với tội danh: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo khai báo thành khẩn, tích cực thu hồi tài sản khắc phục hậu quả nhưng phạm tội nhiều lần, tòa án sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự là không đúng, ngoài áp dụng điểm s điều 51 thì cần áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Nhân thân bị cáo chưa tiền án tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng phạm tội nhiều lần nên áp dụng hình phạt tù là phù hợp, tuy nhiên hình phạt 15 tháng tù đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho bị cáo còn phải chấp hành từ 9-12 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận tòa án nhân dân huyện Mê Linh đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn T tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 1 điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T hội đồng xét xử thấy Tòa án sơ thẩm đã xác định rằng: bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, chủ động tìm hiểu phối hợp với cơ quan điều tra để chuộc lại xe khắc phục hậu quả và áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự là đúng nhưng chưa áp dụng cho bị cáo điểm b khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự là có thiếu sót. Do bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nên việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự là chưa chính xác. Tại cấp phúc thẩm cần sửa lại và áp dụng cho chính xác, đảm bảo quyền lợi của bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, tuy nhiên bị cáo có tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần nên theo quy định của pháp luật bị cáo không có điều kiện được hưởng án treo, cải tạo ngoài xã hội. Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thì hình phạt 15 tháng tù tòa án sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, có căn cứ để chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm của tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội giảm hình phạt tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo tốt.

Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.

- Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 141/2020/HSST ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.

Áp dụng: Khoản 1 điều 323; điểm b,s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 10(mười) tháng tù về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ 17/7/2020 đến 24/7/2020.

- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 100/2021/HS-PT

Số hiệu:100/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;