Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (0,3g ma túy, loại Methamphetamine) số 77/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 77/2022/HS-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2022/TLHS- HS ngày 15 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Bùi Văn T, sinh năm 2000 tại Hòa Bình; tên gọi khác: không; nơi ĐKNKTT: Xóm H, xã Đ, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; chỗ ở: Tổ 8, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Y và bà Trương Thị D; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 20/3/2022 đến ngày 23/3/2022 chuyển tạm giam đến nay; Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn T - Luật sư trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người làm chứng: Bà Lê Thị T và anh Phạm Tiến D; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 20/3/2022, Bùi Văn T đang ở phòng trọ thì có người tên T1 đến rủ T góp tiền đi mua ma túy về sử dụng. T đồng ý và đưa cho T1 70.000đ. T1 chở T đi đến khu vực tổ dân phố B, phường T, thành phố P bảo T đứng đợi để T1 đi mua ma túy. Khoảng 10 phút sau T1 quay lại cho cho T một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có ma túy. T cất vào túi quần bên trái đang mặc, T1 bỏ đi thì Tài bị lực lượng Công an phường T kiểm tra. Tại chỗ T giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa 03 viên nén màu đỏ hồng và khai nhận đó là ma túy cất giữ để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa T cùng tang vật về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định pháp luật.

* Vật chứng, tài sản thu giữ gồm: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng;

01 gói giấy bạc mầu vàng bên trong có 03 viên nén màu đỏ hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT 01; 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu trắng.

Khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Bùi Văn T tại tổ dân phố B, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 107/KL- KTHS ngày 22/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:

“Mẫu viên nén trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,302g, loại Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 78/CT-VKS-PL ngày 13/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Bùi Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Bùi Văn T theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến thay đổi, chỉ bổ sung các tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự mới đươc bổ sung tại phiên tòa. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nh trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của BLHS xử phạt Bùi Văn T mức án từ 24 đến 30 tháng tù được trừ thời hạn đã tạm giữ tạm giam, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của BLHS, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Methamphetamine cùng bao gói hoàn trả sau giám định; trả lại Bùi Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả, không tranh luận, bào chữa và xin HĐXX xem xét giảm nh hình phạt ở mức thấp nhất để bị cáo có cơ hội sớm trở về với gia đình và xã hội.

* Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo:

Nhất trí với nội dung bản luận tội của đại diện Viện Kiểm sát về phần tội danh. Về hình phạt người bào chữa thấy bị cáo có nhân thân tốt, là người dân tộc có nơi sinh sống là địa phương thuộc vùng kinh tế đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính Phủ; bị cáo là lao động chính trong gia đình. Đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 để được hưởng mức hình phạt thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

Đại diện Viện Kiểm sát nhất trí với đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Bùi Văn T được hưởng tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến phản đối hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp. Người bào chữa đã thực hiện đúng về quyền và nghĩa vụ đối với bị cáo khi tham gia tố tụng.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt và công bố lời khai theo quy định của pháp luật.

Về quyền bào chữa của bị cáo thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý đã được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Trợ giúp viên pháp lý thực hiện bào chữa cho bị cáo dảm bảo đúng quy định của pháp luật trong quá trình tranh tụng tại tòa.

[3] Đánh giá về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy HĐXX có đủ chứng cứ buộc tội kết luận:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 20/3/2022, tại tổ dân phố B, phường T, thành phố P, Bùi Văn T đang cất giữ trái phép khối lượng 0,302g ma túy, loại Methamphetamine trong túi quần mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác của Công an phường T, thành phố P phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Bùi Văn T đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. [4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nh trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, không có tiền án tiền sự.

Về tình tiết giảm nh : Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nh quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của BLHS. Tại phiên tòa; gia đình bị cáo có đơn xác nhận của địa phương về việc bị cáo là lao động chính trong gia đình đang sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính Phủ, nên xét chấp nhận đề nghị của người bào chữa và đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nh tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Phủ Lý, là nguyên nhân trực tiếp phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Cân nhắc các tình tiết giảm nh , tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cần tuyên mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không có mục đích trục lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [6] Xử lý vật chứng:

Đối với toàn bộ số ma túy Methamphetamine cùng bao gói có trong phong bì niêm phong hoàn trả sau giám định cùng 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng thu giữ của bị cáo là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng đã qua sử dụng là tài sản của Tài không sử dụng vào hành vi phạm tội nên cần trả lại cho T.

[7] Các vấn đề khác của vụ án:

Đối với người đàn ông tên T1 khoảng 30 tuổi, nhà ở khu vực khu công nghiệp C thuộc phường C, thành phố P, T khai đã góp 70.000 đồng để T1 mua ma túy và giao ma túy cho T. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an phường C tiến hành xác minh nhưng không xác định được người này. Ngoài lời khai của T không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38;

Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự 2015.

Căn cứ các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20 tháng 3 năm 2022.

2/ Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01” số: 107/KTHS. Tại mép dán mặt sau có các chữ ký và ghi rõ họ, tên của Đỗ Thị Hồng Hạnh, Vũ Hồng Cường, 03 (ba) dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Trả lại Bùi Văn T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng số IMEI1: 863886031130931, IMEI2: 863886031130923 (đã cũ qua sử dụng).

Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 14/6/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Bùi Văn T phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người, người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

408
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (0,3g ma túy, loại Methamphetamine) số 77/2022/HS-ST

Số hiệu:77/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;