Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 207/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 207/2020/HS-PT NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 5 năm 2020 tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 114/2020/TLPT-HS ngày 21 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Bùi Ngọc Tường V do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

Bùi Ngọc Tường V; sinh năm 1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Ấp L, xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông B và bà N; hoàn cảnh gia đình: Chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/7/2019 (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thực hiện công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, lúc 09 giờ 30 phút, ngày 16/7/2019, Công an Phường 4, Quận 8 kiểm tra hành chính nhà số A đường L1, Phường A1, Quận B1 (nhà do Lê Ngọc L2 thuê ở) có Bùi Ngọc Tường V, Trần Minh Tr, Nguyễn Thành Â, Võ Thành L3. Qua kiểm tra tại tầng 1, Công an phát hiện thu giữ: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet (bên trong có 02 gói nylon chứa ma tuý) tại cửa ra vào phòng thứ 2; 01 gói nylon chứa ma túy tại sọt rác gần cửa ra vào phòng thứ 2; 01 hộp giấy chứa 01 gói nylon chứa tinh thể không màu ở gần sọt rác trước cửa ra vào phòng thứ 2; 01 quần jean (bên trong có 01 cân tiểu ly) tại lối đi lên cầu thang tầng 1; nên Công an đưa V, Tr, Â, L3 cùng vật chứng về trụ sở Công an Phường 4, Quận 8 để làm rõ. Tạm giữ của V 01 điện thoại di động hiệu Oppo, gắn sim số Y, tạm giữ của Tr 01 điện thoại di động hiệu Nokia gắn sim số X. Sau đó, toàn bộ vụ việc được chuyển giao đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8 để điều tra.

Theo Bản kết luận giám định số 1460/KLGĐ-H ngày 26/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 03 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Minh Tr và hình dấu Công an Phường 4, Quận 8, bên trong có:

- Gói 1: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon (Ký hiệu mẫu m1) cần giám định là ma tuý thể rắn, có khối lượng 0,6710g (không phẩy sáu bảy một không gram), loại Methamphetamine.

- Gói 2: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon (Ký hiệu mẫu m2) cần giám định có khối lượng 1,6798g (một phẩy sáu bảy chín tám gram), không tìm thấy ma tuý.

- Gói 3: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon (Ký hiệu mẫu m3) cần giám định là ma tuý thể rắn, có khối lượng 21,1150g (hai một phẩy một một năm không gram), loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bùi Ngọc Tường V, Trần Minh Tr khai nhận: Lê Ngọc L2 là đối tượng có tiền án về tội phạm ma tuý, từ tháng 6/2019 L2 cùng V sống chung với nhau như vợ chồng tại nhà số A đường L1, Phường A1, Quận B1. Tr là bạn bè quen biết với L2 và L2 cho Tr ở tại nhà trên được khoảng 15 ngày. Quá trình chung sống, V biết L2 mua bán trái phép chất ma tuý, V và Tr phụ giúp L2 bán ma tuý cho người khác. Đến ngày 14/7/2019, L2 có ý định không tiếp tục chung sống với V nên trả nhà thuê và bỏ đi, L2 nhắn tin cho V biết là L2 để lại cho V 02 gói ma tuý tổng hợp (gồm 01 gói lớn và 02 gói nhỏ) ở trong tủ tại phòng ngủ thứ 2 (ở tầng 1) để V bán lại cho người khác lấy tiền làm chi phí sinh hoạt. L2 nhờ Tr giúp V bán ma tuý thì Tr đồng ý. Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 15/7/2019 có một thanh niên tên “Ph Ex” (không rõ lai lịch) nhắn tin (qua mạng Zalo) cho V hỏi mua 01 gói ma tuý giá 700.000 đồng thì V đồng ý bán và lấy gói ma tuý lớn phân ra 01 gói nhỏ giá 700.000 đồng để bán cho “Ph Ex”. V kêu “Ph Ex” thanh toán tiền cho V bằng cách chuyển trước 500.000 đồng vào tài khoản của N1 (không rõ lai lịch) để V trả nợ. Sau đó, V mang theo 02 gói ma tuý cùng với Tr và N2 (bạn gái Tr, không rõ lai lịch) đến quán karaoke Bảo Minh (không rõ địa chỉ) để bán ma tuý cho “Ph Ex”, đồng thời V rủ Võ Thành L3 đến quán này. Tại quán karaoke Bảo Minh, V đưa cho Tr 02 gói ma tuý và nói cho Tr 01 gói, còn 01 gói bán cho “Ph Ex”, còn tiền thì “Ph Ex” đã thanh toán cho V thì Tr đồng ý. Tr vào phòng karaoke gặp và bán gói ma tuý trên cho “Ph Ex”. sau đó, giữa V và “Ph Ex” thoả thuận V sẽ trừ 200.000 đồng mà “Ph Ex” còn thiếu sau khi cùng sử dụng ma tuý chung, nên “Ph Ex” lấy ma tuý cùng V, L3, Tr và N2 sử dụng. Tiếp đó, “Ph Ex” cùng Tr, N2, L3 đến khách sạn Phương Linh (không rõ địa chỉ) thuê phòng, tại đây Tr lấy một ít ma tuý (trong gói ma tuý mà V cho) ra sử dụng, còn V về nhà số A L1, Phường A1, Quận B1 tiếp tục lấy 01 gói ma tuý nhỏ mang đến khách sạn Phương Linh và V cho Tr gói ma tuý này. Đến khoảng 07 giờ, ngày 16/7/2019, Tr và V về nhà số A đường L1, Phường A1, Quận B1; Tr bỏ 02 gói ma tuý tổng hợp được V cho vào trong bao thuốc lá “Jet” rồi để ở gần cửa ra vào phòng thứ 2 lầu 1 cất giữ để sử dụng, nếu có người hỏi mua thì sẽ bán lại với giá 500.000 đồng/gói. Một lúc sau, L3 và Nguyễn Thành  đến nhà số A đường L1, Phường A1, Quận B1 dọn nhà theo yêu cầu của L2. Trong lúc V, Tr, Â, L3 đang dọn dẹp nhà thì Công an Phường 4, Quận 8 đến kiểm tra; lúc này V bỏ chạy lên lầu 1 lấy gói ma tuý lớn trong tủ bỏ vào sọt rác thì bị phát hiện thu giữ vật chứng như nêu trên. Đối với gói ma tuý lớn V định phân thành 07 gói nhỏ bán giá 700.000 đồng/gói, còn gói nylon chứa tinh thể không màu (để trong 01 hộp giấy) ở gần sọt rác qua giám định không tìm thấy chất ma tuý thì V và Tr không biết của ai. Tr không biết việc L2 để lại gói ma tuý cho V. Trước đó Tr đã 05 lần mang ma tuý đi bán giúp L2. Lời khai của Bùi Ngọc Tường V phù hợp với lời khai của Trần Minh Tr và phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Bùi Ngọc Tường V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm b, điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc Tường V 09 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 19/7/2019.

Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần hình phạt của bị cáo Trần Minh Tr, phần xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của các bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/01/2020, bị cáo Bùi Ngọc Tường V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi Ngọc Tường V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung, phân tích tính chất vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa bản án hình sự sơ thẩm, đề nghị xử phạt bị cáo V 09 (chín) năm tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội: Căn cứ lời khai của bị cáo, kết hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án xét đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận:

Vào ngày 16/7/2019, tại nhà số A đường L1, Phường A1, Quận B1, bị cáo Bùi Ngọc Tường V có hành vi cất giữ 21,1150g ma túy loại Methamphetamine để bán cho người khác thì bị Công an Quận 8 phát hiện bắt quả tang. Qua điều tra xác định, vào ngày 15/7/2019, V đưa cho Tr 01 gói ma túy tổng hợp bán cho “Ph Ex”.

[2] Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo V, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy nên cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm cũng xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo mức hình phạt 09 năm 06 tháng tù.

[4] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm cũng xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo mức hình phạt 09 năm 06 tháng tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Xét tính nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Mặt khác, trước và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không xuất trình được tình tiết gì mới khác để Hội đồng xét xử xem xét. Do đó, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên mức hình phạt mà án hình sự sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Căn cứ điểm b, điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc Tường V 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 19/7/2019.

2. Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 207/2020/HS-PT

Số hiệu:207/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;