Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Thành T (tên gọi khác: không); sinh ngày 28/02/1989, tại U, Quảng Ninh; nơi đăng ký thường trú: khu 4, phường B, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn M (đã chết) và bà Vũ Thị T, sinh năm 1950; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: chưa; nhân thân: ngày 18/5/2010, bị Tòa án nhân dân thị xã Uông Bí (nay là Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí) xử phạt 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 07/11/2021, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Phạm Thị H, sinh năm 1986; nơi đăng ký thường trú: tổ 3B, khu 1, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến: anh Dương Văn Đ, sinh năm 1996; nơi đăng ký thường trú: khu 6, phường H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên ngày 03/11/2021, Hoàng Thành T đi đến khu vực ngã ba giao giữa đại lộ HB và đường đi vào trường dạy lái xe thành phố Móng Cái, gặp và mua của đối tượng tên là T (không rõ lai lịch, địa chỉ) 03 túi ma túy về sử dụng. Sau khi sử dụng hết 03 túi ma tuý trên, T cất 03 vỏ túi vào trong chiếc lọ màu đỏ gắn ở chùm chìa khóa xe mô tô của T. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 07/11/2021, T nảy sinh ý định mua ma tuý về bán kiếm lời nên điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius đeo biển kiểm soát 35N1-228.71, đến gặp và mua của T 03 túi ma túy với giá 600.000 đồng, mục đích để bán. Sau khi mua, T cất 03 túi ma túy vào trong chiếc lọ màu đỏ gắn ở chùm chìa khóa xe mô tô cùng 03 vỏ túi nilon cất giấu trước đó, rồi điều khiển xe đi tìm khách để bán. Khoảng 23 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô đi đến đoạn đường N thuộc khu 7, phường H, thành phố M, thì bị Công an phường Hải Yên phối hợp với Công an phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, kiểm tra phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của T gồm: 03 túi nilon đều chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M1 đến M3); 03 túi nilon bên trong bám dính chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M4 đến M6); 01 lọ nhựa hình trụ tròn màu đỏ, có lắp vặn; 01 chùm chìa khóa gồm 03 chìa; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius đeo biển kiểm soát 35N1-228.71 và 1.910.000 đồng (một triệu chín trăm mười nghìn đồng).

Tại bản Kết luận giám định số 2049/KLGĐ ngày 16/11/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: mẫu vật ký hiệu từ M1 đến M6 gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: M1: 0,101 gam; M2:

0,063 gam; M3: 0,115 gam; M4, M5, M6 dạng vết không xác định được khối lượng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có lời khai như nội dung vụ án: T còn khai nhận trước đó đã nhiều lần mua ma tuý về để bán kiếm lời nhưng không nhớ bán cho ai, thời gian và số tiền cụ thể từng lần bán; ngoài ra, T khai sau khi mua chiếc xe mô tô của một người đàn ông không quen biết ở thành phố H, T đặt mua trên mạng Internet chiếc biển kiểm soát giả 35N1-228.71, gắn vào để sử dụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trong hồ sơ vụ án và đơn đề nghị xét xử vắng mặt thể hiện: vào năm 2012 chị mua chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 14B1-165.46 với giá 14.500.000 đồng, giấy đăng ký xe mang tên “Phạm Thị H”. Đến tháng 01/2016 tại phường H, thành phố H, chị bị kẻ gian trộm mất chiếc xe trên cùng giấy đăng ký xe nhưng chị không trình báo sự việc với cơ quan Công an. Nay chị được biết Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái đã thu giữ được chiếc xe trên nên chị đề nghị được nhận lại chiếc xe làm phương tiện đi lại, không có đề nghị gì thêm.

Người chứng kiến anh Dương Văn Đ trong quá trình điều tra có nội dung lời khai thể hiện: anh được chứng kiến lực lượng Công an tiến hành kiểm tra đối với Hoàng Thành T, phát hiện thấy bên trong chiếc lọ nhựa màu đỏ có 06 (sáu) túi nilon trong suốt; trong đó có: 03 (ba) túi nilon rỗng, 03 (ba) túi nilon có chứa chất tinh thể màu trắng. T khai nhận những túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy “đá”, mua về để bán cho người khác kiếm lời.

Liên quan trong vụ án có đối tượng tên Tân đã bán trái phép ma túy cho T, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với nội dung Hoàng Thành T khai trước đó đã nhiều lần mua ma tuý về bán kiếm lời, tuy nhiên ngoài lời khai của T, quá trình điều tra không thu thập được các chứng cứ khác chứng minh nên không có căn cứ xử lý đối với T theo tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Đối với 03 túi ma tuý mua ngày 03/11/2021, T đã sử dụng hết nên không đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với T về hành vi này.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, số máy: 5C64-859024, số khung: RLCS5C640CY859019. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên đăng ký biển kiểm soát 14B1-165.46, chủ sở hữu là chị Phạm Thị H. Chị H khai bị mất trộm chiếc xe trên vào tháng 01/2016, tại phường H, thành phố H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Móng Cái đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long biết.

Tại bản cáo trạng số: 19/CT-VKS-MC, ngày 11/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái truy tố bị cáo Hoàng Thành T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đã giữ nguyên quyết định truy tố và luận tội đối với bị cáo Hoàng Thành T. Sau khi phân tích nội dung vụ án, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã đề nghị với Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Hoàng Thành T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt: bị cáo Hoàng Thành T từ 27 (hai mươi bảy) đến 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 07/11/2021.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Thành T.

Về vật chứng và xử lý vật chứng: căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: M1: 0,05 gam (không phẩy không lăm gam) ma túy, loại Methamphetamine; M2: 0,02 gam (không phẩy không hai gam) ma túy, loại Methamphetamine; M3: 0,06 gam (không phẩy không sáu gam) ma túy, loại Methamphetamine; 01 (một) lọ nhựa hình trụ màu đỏ, có nắp vặn; 01 (một) biển kiểm soát giả 35N1-228.71. Trả lại cho bị cáo: 02 (hai) chiếc chìa khóa; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng hồng; 1.910.000 đồng (một triệu chín trăm mười nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Trả lại cho chị Phạm Thị Hai: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen, số khung: RLCS5C640CY859019; số máy: 5C64-859024; xe đã qua sử dụng, nhiều bộ phận bị trầy xước và 01 (một) chìa khóa xe mô tô.

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Thành T đã khai nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng truy tố bị cáo. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: tại phiên toà bị cáo Hoàng Thành T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: biên bản bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định và phù hợp với lời khai của người chứng kiến cùng các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận vào khoảng 23 giờ ngày 07/11/2021, tại khu 7, phường H, thành phố M, Hoàng Thành T có hành vi cất giấu 0,279 gam (không phẩy hai bảy chín gam) ma túy, loại Methamphetamine, nhằm mục đích bán kiếm lời, thì bị phát hiện bắt quả tang. Do đó, hành vi cất giấu 0,279 gam (không phẩy hai bảy chín gam) ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích bán kiếm lời của bị cáo Hoàng Thành T đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước đối với các chất ma tuý, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi nhận thức rõ tác hại của ma túy, để thỏa mãn nhu cầu riêng của bản thân bị cáo đã cố ý cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán cho người khác kiếm lời, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì vậy cần xử lý nghiêm, mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, phòng ngừa chung.

[3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt bổ sung:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, ngày 18/5/2010 Tòa án nhân dân thị xã Uông Bí (nay là Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí) xử phạt 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hoàng Thành T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố, mẹ được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất, hạng nhì là người có công với cách mạng. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

- Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và khối lượng ma túy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết ấn định mức hình phạt nghiêm trong khung đã truy tố đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về vật chứng và xử lý vật chứng:

- Sau khi giám định, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại Cơ quan CSĐT Công an thành phố Móng Cái là M1: 0,05 gam ma túy, loại Methamphetamine; M2: 0,02 gam ma túy, loại Methamphetamine; M3: 0,06 gam ma túy, loại Methamphetamine kèm theo kết luận giám định số: 2049/KLGĐ ngày 16/11/2021 theo đúng quy định của pháp luật là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01 (một) lọ nhựa hình trụ màu đỏ, có nắp vặn, cao 3,5cm, đường kính khoảng 04cm; 01 (một) biển kiểm soát giả 35N1-228.71 không có giá trị sử dụng.

Do đó căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 02 (hai) chiếc chìa khóa; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng hồng, số IMEI: 357296099298039, bên trong lắp 01 (một) sim số: 0961.742.888, máy đã qua sử dụng; 1.910.000 đồng (một triệu chín trăm mười nghìn đồng) tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam thu giữ của bị cáo. Đây là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng đen, số khung: RLCS5C640CY859019; số máy: 5C64-859024 và 01 (một) chiếc chìa khóa xe mô tô thu giữ của bị cáo, bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết ở thành phố H, tại thời điểm thu giữ bị cáo không xuất trình được giấy tờ chứng minh nguồn gốc chiếc xe. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô số khung, số máy nguyên thủy không bị tẩy xóa, tại phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của Công an thành phố Móng Cái xác định chiếc xe mô tô trên mang BKS 14B1-165.46, thuộc sở hữu của chị Phạm Thị H và phù hợp với biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ đối với xe mô tô số: 0043285 ngày 18/9/2014 người nộp tiền ông Phạm Văn T (bố chị Phạm Thị H), ngoài ra còn phù hợp với thời điểm chị H bị mất trộm chiếc xe vào tháng 01/2016, tại phường H, thành phố H, chị H không biết bị cáo dùng vào việc phạm tội. Do đó căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần trả lại cho chị Phạm Thị H.

[6] Về nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm: cần buộc bị cáo Hoàng Thành T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Liên quan trong vụ án có đối tượng tên T đã bán trái phép ma túy cho T, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

[9] Đối với nội dung Hoàng Thành T khai trước đó đã nhiều lần mua ma tuý về bán kiếm lời, tuy nhiên ngoài lời khai của T, quá trình điều tra không thu thập được các chứng cứ khác chứng minh nên không có căn cứ xử lý đối với T theo tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Đối với 03 túi ma tuý mua ngày 03/11/2021, T đã sử dụng hết nên không đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với T về hành vi này.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Hoàng Thành T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Hoàng Thành T 27 (hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 07/11/2021.

*. Về vật chứng và xử lý vật chứng: căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy:

+ M1: 0,05 gam (không phẩy không lăm gam) ma túy, loại Methamphetamine; M2: 0,02 gam (không phẩy không hai gam) ma túy, loại Methamphetamine; M3: 0,06 gam (không phẩy không sáu gam) ma túy, loại Methamphetamine được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: “mẫu vật hoàn lại kèm theo KLGĐ số 2049/KLGĐ ngày 16/11/2021”;

+ 01 (một) lọ nhựa hình trụ màu đỏ, có nắp vặn, cao 3,5cm, đường kính khoảng 04cm; 01 (một) biển kiểm soát giả 35N1-228.71.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Thành T 02 (hai) chiếc chìa khóa ; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng hồng, số IMEI: 357296099298039, bên trong lắp 01 (một) sim số: 0961.742.888, máy đã qua sử dụng; 1.910.000 đồng (một triệu chín trăm mười nghìn đồng) tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho chị Phạm Thị H 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng đen, số khung: RLCS5C640CY859019; số máy: 5C64-859024; xe đã qua sử dụng, nhiều bộ phận bị trầy xước và 01 (một) chiếc chìa khóa xe mô tô.

(Tình trạng số vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng số 41/2022/THA, ngày 23 tháng 02 năm 2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh và Cơ quan CSĐT Công an thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh).

*. Về nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm: căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hoàng Thành T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

*. Về quyền kháng cáo: căn cứ vào khoản 1, khoản 4 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

Số hiệu:20/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;