Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 389/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 389/2021/HS-PT NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 441/2021/TLPT-HS ngày 23 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Đào Thị L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2021/HS-ST ngày 16/07/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2039/2021/QĐXXPT-HS ngày 13/9/2021.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Đào Thị L; sinh ngày: 19/5/1979 tại tỉnh H Yên; nơi đăng ký thường trú: tỉnh Đắk Lắk; nơi tạm trú: tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 8/12; con ông Đào Văn P, sinh năm 1944 và bà Đàm Thị D, sinh năm 1954; bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/12/2019 cho đến nay (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đào Thị L có mối quan hệ quen biết với vợ chồng ông Nguyễn Viết H và bà Hồ Thị H. Từ năm 2015 đến đầu năm 2016, L nhiều lần vay tiền của ông H và bà H với số tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng để làm ăn và đã trả lại tiền đầy đủ.

Tháng 10/2015 vợ chồng ông Đào Văn P và bà Đàm Thị D làm thủ tục cho tặng thửa đất số 710, tờ bản đồ số 5, tại địa chỉ tổ dân phố 3, thị trấn E, huyện E, diện tích 290,0m2 cho con gái là Đào Thị L. Ngày 15/12/2015, Ủy ban nhân dân (UBND) huyện E, tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BO 006448 đối với thửa đất trên cho Đào Thị L.

Tháng 01/2016 do cần tiền để đầu tư làm ăn, buôn bán L đến nhà ông H bà H đề nghị vay số tiền 200.000.000 đồng. Khi vay có viết giấy vay tiền, thỏa thuận lãi suất 3%/tháng và thế chấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BO 006448 cấp ngày 15/12/2015, thời hạn vay 12 tháng, thỏa thuận trả lãi hàng tháng. Tiếp đó, vào tháng 3/2016 và ngày 06/9/2017, L tiếp tục vay của ông H, bà H số tiền 350.000.000 đồng và 150.000.000 đồng để buôn bán và cho người khác vay lại đáo hạn ngân hàng nhằm kiếm lãi suất chênh lệch. Khi vay có viết giấy vay tiền, lãi suất 3%/tháng, tiếp tục thế chấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất nêu trên và thỏa thuận trả lãi hàng tháng.

Do L chưa trả tiền gốc của hai lần vay trước nên hai bên thống nhất hủy bỏ các giấy vay tiền trước đó và viết gộp các khoản vay trên thành một Giấy vay tiền ghi ngày 06/9/2017 (giấy do ông H bà H chuẩn bị), thể hiện nội dung: “...Đào Thị L vay của ông Nguyễn Viết H và bà Hồ Thị H số tiền 700.000.000 đồng (bảy trăm triệu đồng), trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày 06/9/2017, tài sản thế chấp là 01 sổ hồng...”.

Mặc dù giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BO 006448 mang tên Đào Thị L đang được L thế chấp cho ông H bà H để vay tiền, nhưng ngày 01/7/2016, L đã làm đơn gửi UBND thị trấn E, huyện E về mất giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BO 006448 đối với thửa đất số tờ bản đồ số 5, tại địa chỉ tổ dân phố 3, thị trấn E, huyện E, diện tích 290,0m2 mang tên Đào Thị L đã được UBND huyện E cấp ngày 15/12/2015 và đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới cho L.

Ngày 26/10/2016 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CE 425101, thửa đất số 710, tờ bản đồ số 5, tại địa chỉ tổ dân phố 3, thị trấn E, huyện E, diện tích 290,0m2 cho Đào Thị L. Sau khi được cấp lại Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất mới, L không thông báo cho vợ chồng ông H bà H biết.

Ngày 13/12/2016 L thế chấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CE 425101 cấp ngày 26/10/2016 tại Ngân hàng X Chi nhánh huyện E theo Hợp đồng tín dụng số 5202-LAV- 2016 05794 vay số tiền 300.000.000 đồng. Ngày 23/10/2017 đến hạn trả nợ khoản vay số tiền 300.000.000 đồng cho Ngân hàng, L vay của vợ chồng ông H, bà H số tiền 350.000.000 đồng, thời hạn vay 03 đến 04 ngày, mục đích vay để đáo hạn ngân hàng. Sau đó, L sử dụng khoản tiền này để tất toán khoản vay 300.000.000 đồng đã vay trước đó tại Ngân hàng X Chi nhánh huyện E.

Ngày 23/10/2017 và ngày 26/10/2017 L tiếp tục sử dụng Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CE 425101 cấp ngày 26/10/2016 thế chấp tại Ngân hàng X Chi nhánh huyện E, tỉnh Đắk Lắk ký Hợp đồng số 5202LAV2017 03915 và Hợp đồng số 5202LAV2017 03994 vay tổng số tiền 500.000.000 đồng. Sau đó, L sử dụng số tiền vay của Ngân hàng trả cho vợ chồng ông H, bà H 300.000.000 đồng, nợ lại 50.000.000 đồng; số tiền còn lại 200.000.000 đồng L dùng để trả nợ, lãi suất cho nhiều người tại thị trấn E, huyện E.

Ngày 07/3/2018 L tiếp tục vay của vợ chồng ông H, bà H số tiền 100.000.000 đồng lãi suất 3%/tháng, mục đích vay là để cho người khác vay lại đáo hạn ngân hàng, hai bên thỏa thuận viết gộp khoản vay trên và khoản vay số tiền 50.000.000 đồng chưa trả vào ngày 23/10/2017 thành một Giấy vay tiền ghi ngày 07/3/2018, thể hiện nội dung: “...Đào Thị L vay của ông Nguyễn Viết H và bà Hồ Thị H số tiền 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng) thời hạn vay 12 tháng, tài sản thế chấp 01 bìa đỏ mang tên Đào Thị L...”. Sau khi vay được tiền, L cho bà H1, bà Y (không rõ nhân thân, lai lịch) vay mỗi người 50.000. 000, việc vay tiền không có giấy tờ thể hiện. Như vậy Đào Thị L vay của ông H, bà H tổng số tiền 850.000.000 đồng (tám trăm năm mươi triệu đồng).

Ngày 20/4/2018, Đào Thị L đã làm Hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất nêu trên cho vợ chồng ông Huỳnh H và bà Lê Thị T với số tiền 1.000.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận ông H, bà T có trách nhiệm trả cho Ngân hàng X Chi nhánh huyện E số tiền 500.000.000 đồng để rút Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CE 425101 cấp ngày 26/10/2016 ra. Ngày 03/5/2018, sau khi làm xong thủ tục sang tên, vợ chồng ông H, bà T trả số tiền còn lại là 500.000.000 đồng cho Đào Thị L, số tiền này, L dùng một phần để trả tiền lãi suất cho ông H, bà H và những người khác tại thị trấn E, huyện E. Đến nay, Đào Thị L chưa trả tiền nợ gốc cho ông H bà H (BL: 23-26; 36- 136; 226- 227; 232-233).

Như vậy, trong thời gian từ tháng 01/2016 đến tháng 3/2016 Đào Thị L đã vay tiền của ông H, bà H 02 lần với số tiền 550.000.000 đồng và L đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 006448 cấp ngày 15/12/2015 mang tên Đào Thị L. Việc vay mượn là ngay thẳng, không có ý thức gian dối, chiếm đoạt tài sản. Do vậy, giai đoạn này là quan hệ dân sự, không có dấu hiệu tội phạm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý đối với số tiền này là có căn cứ.

Tuy nhiên đến ngày 01/7/2016, mặc dù giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 006448 do UBND huyện E cấp ngày 15/12/2015 đã được L thế chấp cho ông H bà H để vay tổng số tiền 550.000.000 đồng nhưng L đã có hành vi gian dối làm đơn giả báo mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên và đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới cho L. Ngày 26/10/2016 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE 425101, thửa đất số 710, tờ bản đồ số 5, tại địa chỉ tổ dân phố 3, thị trấn E, huyện E, diện tích 290,0m2 cho Đào Thị L. L nhận thức được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 006448 do UBND huyện E cấp ngày 15/12/2015 đang thế chấp cho ông H, bà H lúc này không còn giá trị pháp lý. Mục đích báo mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới là do vào thời điểm trên L đã nợ tiền của nhiều người dân không có khả năng trả nợ nên sau khi làm lại được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới sẽ tiếp tục đi thế chấp, cầm cố để lấy tiền sử dụng vào mục đích cá nhân (BL 385-386).

Ngày 13/12/2016 L thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE 425101 cấp ngày 26/10/2016 tại Ngân hàng X chi nhánh huyện E để vay số tiền 300.000.000 đồng.

Sau đó L tiếp tục vay của ông H, bà H 03 lần vào các ngày 06/9/2017, 23/10/2017 và ngày 07/3/2018 với tổng số tiền 600.000.000 đồng (vẫn nói thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 0064448 do UBND do UBND huyện E cấp ngày 15/12/2015) nhung đã trả được 300.000.000 đồng, số tiền còn lại 300.000.000 đồng. Việc L vẫn trả lãi suất hàng tháng đầy đủ cho ông H, bà H nhung vào thời điểm trên L đã mất khả năng trả nợ, bản thân không kinh doanh gì có lãi mà chỉ vay tiền của người này trả cho người khác. Ngày 20/4/2018 L đã làm Hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất nêu trên cho vợ chồng ông H, bà T với số tiền 1.000.000.000 đồng. L sử dụng 500.000.000 đồng để tất toán khoản vay cho Ngân hàng, số tiền còn lại L chỉ sử dụng trả lãi suất cho ông H, bà H 25.000.000 đồng và trả nợ cho những người khác, tiêu xài cá nhân hết.

Tại Bản kết luận giám định số 743/PC09 ngày 16/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chữ ký, chữ viết đứng tên “Đào Thị L” trong các tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2 so với chữ ký, chữ viết của Đào Thị L dưới mục “người khai” trong tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, là do cùng một người ký và viết ra (BL: 31-32).

Như vậy, từ ngày 06/9/2017 đến ngày 07/3/2018 Đào Thị L đã có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt của ông Nguyễn Viết H, bà Hồ Thị H tổng số tiền 300.000.000đ. Hiện nay Đào Thị L không còn tài sản gì.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2021/HS-ST ngày 16/7/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Đào Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đào Thị L 07 (Bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/7/2021 bị cáo Đào Thị L gửi đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: Bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khai báo tất cả hành vi xảy ra trước đó; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; đây là lần đầu phạm tội; bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Nhung án sơ thẩm xử bị cáo 07 năm tù là nặng; do vậy bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Đào Thị L vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo nhu trong đơn.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, H đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Về nội dung: Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa đã có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Đào Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015; áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xử phạt 07 năm tù là thỏa đáng, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhung không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, H đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nên đã có đủ căn cứ xác định: Trong thời gian từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 4 năm 2018, Đào Thị L đã thế chấp Giấy CNQSDĐ cho anh H chị H để vay tiền, nhưng lại đưa ra thông tin giả dối : “Bị mất Giấy CNQSDĐ”, để sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại giấy khác và sử dụng để thế chấp cho Ngân hàng X-Chi nhánh E vay nhiều lần tiền và sau đó sử dụng giấy này để chuyển nhượng đất cho vợ chồng anh Huỳnh H chị Lê Thị T 1.000.000.000đ mang đi trả nợ cho Ngân hàng và nhiều người khác. Với hành vi và hậu quả nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2021/HS-ST ngày 16/7/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quy kết bị cáo Đào Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200.000.000đ đến dưới 500.000.000đ có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm) tuyên phạt bị cáo 07 năm tù và buộc bị cáo phải bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho người bị hại là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; HĐXX thấy rằng: Án sơ thẩm xác định số tiền bị cáo chiếm đoạt là 300.000.000đ, đã thanh toán được 142.000.000đ, còn lại 157.500.000đ, nên áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51; ngoài ra bị cáo còn có 02 tình tiết giảm nhẹ ở điểm s khoản 1 Điều 51 và một số tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 BLHS như bị cáo nêu trong đơn kháng cáo. Nhưng do bị cáo phạm tội nhiều lần, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS, nên không thể áp dụng Điều 54 để xử dưới khung hình phạt. Do vậy, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo giảm án cho bị cáo.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc giảm nhẹ hình phạt; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2021/HS-ST ngày 16/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Tuyên bố: Bị cáo Đào Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đào Thị L 07 (Bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày từ ngày bắt thi hành án.

2/ Về án phí: Bị cáo Đào Thị L phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (29/9/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

415
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 389/2021/HS-PT

Số hiệu:389/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;