Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 23/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 23/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 238/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 244/2021/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/QĐ-HPT ngày 07/01/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/QĐ-HPT ngày 14/01/2022 đối với các bị cáo:

1. Dương Thanh S, sinh năm 1998; Nơi cư trú: DX, HP, UH, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính:

Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Dương Văn Q1, sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1976, chưa có vợ con; Tiền án tiền sự theo danh chỉ bản số 18 Công an huyện Gia Lâm lập ngày 02/10/2021 và Lý lịch bị can chính quyền địa phương cung cấp: Không; Hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/9/2021 đến nay. “Có mặt”.

2. Kiều Văn H(Tên gọi khác: Đ), sinh năm 2001; Nơi cư trú: NH, LH, UH, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Kiều Văn B2, sinh năm 1971 và bà Kiều Thị L2, sinh năm 1972, chưa có vợ con; Tiền án tiền sự theo danh chỉ bản số 17 Công an huyện Gia Lâm lập ngày 02/10/2021 và Lý lịch bị can chính quyền địa phương cung cấp: Không; Hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/9/2021 đến nay. “Có mặt”.

3. Nguyễn Xuân K, sinh ngày 10/8/2004; Nơi cư trú: ĐM, ĐT, MĐ, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn D3, sinh năm 1979 và bà Lê Thị H3, sinh năm 1980; Tiền án tiền sự theo danh chỉ bản số 16 Công an huyện Gia Lâm lập ngày 02/10/2021 và Lý lịch bị can chính quyền địa phương cung cấp: Không; Hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/9/2021 đến nay. “Có mặt”.

- Người giám hộ cho bị cáo K: Ông Nguyễn Văn D3, sinh năm 1979 và bà Lê Thị H3, sinh năm 1980; Nơi cư trú: ĐM, ĐT, MĐ, TP Hà Nội. “Ông D3 vắng mặt, bà H3 có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo K: Ông Lê Quang Đ – Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội – chi nhánh số 11, địa chỉ liên hệ: Nhà văn hóa huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. “Có mặt”.

* Người bị hại: Anh Lê Minh T, sinh năm 1988, nơi cư trú: Số 246/37/8 khu phố 1, phường ALA, quận BT, TP Hồ Chí Minh. “Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt”.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Đức Tr, sinh ngày 02/02/2006; Nơi cư trú: Thôn NĐ, xã ĐB, huyện UH, TP Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật cho anh Tr: Bà Dư Thị H4, sinh năm 1979; HKTT: Thôn NĐ, xã ĐB, huyện UH, TP Hà Nội. “Anh Tr, bà H4 vắng mặt”.

2. Chị Lê Thị Mai L4, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Số 51, HL, phường HM, quận HK, TP Hà Nội. “Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt”.

3. Chị Nguyễn Xuân A, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Số 8, ngõ 202 đường NVC, phường LL, TP BG, tỉnh Bắc Giang. “Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt”.

4. Chị Phạm Hải Y, sinh ngày 18/01/2003; Nơi cư trú: Thôn T, TL, TN, Hải Phòng. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 4/2021, Dương Thanh S nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của những người khác dưới hình thức giả danh Công ty xổ số bán số Lô, số Đề qua mạng xã hội và cam kết số cấp ra cho khách hàng chính xác 100%. Để tạo lòng tin cho những người mua số Lô, số Đề thì sẽ đăng lên facebook những bài viết đã được chỉnh sửa có nội dung thể hiện Công ty xổ số đã cấp cho khách hàng những số Lô, số Đề và khách hàng đã trúng thưởng so với kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày. Trên mỗi bài đăng lên facebook đều gắn kèm số điện thoại đăng ký nick zalo để cho khách liên hệ mua số lô, số đề. Để thực hiện ý định này, S thuê căn hộ 2109, tòa S211, KĐT VHO, ĐT, Gia Lâm, Hà Nội để ở, mua tài khoản Ngân hàng MB Bank số tài khoản 08183689016999 mang tên Nguyen Xuan A của người (không rõ nhân thân) qua mạng, mua 300 tài khoản Facebook trong đó có khoảng 240 tài khoản Facebook còn hoạt động. Sau khi đã chuẩn bị xong, ngày 10/4/2021, S thuê Kiều Văn H làm việc cho S và trả lương cho H 4.000.000 đồng/tháng, Đến ngày 10/5/2021, S thuê Nguyễn Đức Tr làm thuê cho S và trả lương cho Trung 5.000.000 đồng/tháng. Đến ngày 15/5/2021, Nguyễn Xuân K cũng đến làm thuê cho S và được S trả lương 5.000.000 đồng/tháng. S giao cho H, K, Tr mỗi người một chiếc điện thoại di động trong có cài đặt ứng dụng nhiều tài khoản facebook để H, K, Tr tương tác, kết bạn với nhiều tài khoản facebook khác. Hàng ngày sau khi có kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, S dùng 02 chiếc điện thoại di động nhắn tin với nhau qua zalo giả danh là người mua, người bán số Lô, số Đề, sau khi có kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, S chỉnh sửa để cho người bán cung cấp cho các số Lô, số Đề trùng với kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc ngày hôm đó. Sau đó S dùng điện thoại chụp lại màn hình điện thoại các nội dung tin nhắn này và điều chỉnh lại múi giờ trong điện thoại để nội dung tin nhắn mua số Lô, số Đề là trước khi có kết quả xổ số rồi S gửi cho H, K, Tr dùng điện thoại di động đăng lên Facebook. Trên mỗi bài đăng lên facebook đều gắn kèm số điện thoại 0877839657 đăng ký nick zalo “Xổ số Minh Ngọc” để cho khách liên hệ mua số lô, số đề. Khi có người muốn mua số Lô, số Đề thì S sẽ trực tiếp giao dịch, thỏa thuận qua zalo với khách, giá bán: số bạch thủ lô: 6.000.000 đồng; 1 số bạch thủ đề: 20.000.000 đồng và số ba càng: 45.000.000 đồng. Người mua số lô, đề, ba càng thì sẽ phải chuyển tiền trước vào tài khoản ngân hàng MB Bank số tài khoản 0818369016999 mang tên Nguyen Xuan A. Sau khi nhận tiền thì S sẽ lấy bất kỳ số nào rồi nhắn tin chuyển qua zalo cho khách. Nếu số lô, số đề bán cho khách mà không trúng thì S không liên lạc và không trả lại tiền cho khách.

Với phương thức thủ đoạn này, khoảng 9 giờ ngày 19/5/2021, anh Lê Minh T, sinh: 1988, trú tại: 246/37/8 KP1, P. ALA, BT, TP Hồ Chí Minh sử dụng tài khoản zalo “Lê T”, số điện thoại 0909717181 nhắn tin vào tài khoản zalo “Xổ số Minh Ngọc” để hỏi mua số lô bạch thủ. Để tạo sự tin tưởng S nói là làm tại công ty xổ số có thể lập hồ sơ thầu mua được những số lô, đề, ba càng với xác suất trúng cao. Khi nói chuyện xong, anh Tiến có nhu cầu muốn mua số lô bạch thủ thì S yêu cầu T chuyển số tiền 6.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng MB Bank số 0818369016999 mang tên Nguyen Xuan A nhưng do không đủ tiền nên anh Tiến đã chuyển số tiền 3.000.000 đồng từ tài khoản ngân hàng Agribank số 6421215030920 mang tên Lê Minh T vào tài khoản mà MB Bank số 0818369016999 mang tên Nguyen Xuan A. Sau khi nhận được tiền, S đã nhắn tin cung cấp cho anh T số lô bạch thủ 06. Sau khi có kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng thì số lô bạch thủ mà S cho anh Tiến không trúng nên anh T đã nhắn tin yêu cầu trả lại tiền nhưng S đưa ra nhiều lý do khác nhau và đã chiếm đoạt số tiền 3.000.000 đồng của anh T.

Ngày 26/5/2021 Công an huyện Gia Lâm kiểm tra hành chính căn hộ 2109 S2-11 VHO thuộc địa phận xã ĐT, Gia Lâm, Hà Nội thì phát hiện bị cáo Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K, anh Nguyễn Đức Tr và chị Phạm Hải Y trong căn hộ này, thu giữ của S 03 chiếc điện thoại, 01 thẻ Ngân hàng, thu giữ của Tr 01 điện thoại Tại cơ quan điều tra, các bị cáo S, H, K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số 225/CT-VKSGL ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố các bị cáo Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Quá trình chuẩn bị xét xử, anh Lê Minh T yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 3.000.000 đồng anh bị lừa đảo. Quá trình điều tra, bị cáo S đã nộp 3.000.000 đồng khắc phục hậu quả. Tại phiên tòa, các bị cáo trình bày đây là số tiền của 3 bị cáo cùng nhau đưa S để nộp khắc phục hậu quả. Nay anh T không còn yêu cầu gì khác về dân sự.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo bị cáo Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K khai nhận toàn bộ hành vi đúng như cáo trạng truy tố, không sửa đổi bổ sung gì. 03 bị cáo Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K xin tự nguyện bồi thường cho anh Lê Minh T số tiền 3.000.000 đồng các bị cáo đã chiếm đoạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng 3 bị cáo Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K đã phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đây là vụ án đồng phạm. Bị cáo Dương Thanh S là người chủ mưu, tổ chức, người thực hành tích cực, S rủ K, Tr dưới 18 tuổi phạm tội; Bị cáo H, K thực hiện với vai trò người giúp sức tích cực; 3 bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, cùng thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, cùng khắc phục thiệt hại cho người bị hại;

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm s b h khoản 1 Điều 51, điểm o khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo Dương Thanh S từ 27 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 54 đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo S về UBND xã HP, huyện UH, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm s b h khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo Kiều Văn H từ 24 đến 26 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 52 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo H về UBND xã LH, huyện UH, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 174, điểm s b h khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65, 101 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân K từ 10 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 20 đến 24 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo K về UBND xã ĐT, huyện MĐ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: không Về dân sự: Ghi nhận 3 bị cáo đã bồi thường cho anh T số tiền 3.000.000 đồng. Trả lại anh T 3.000.0000 đồng tại Biên lai số AA/2020/0054885 ngày 05/01/2022 tại Chi cục THADS huyện Gia Lâm, Hà Nội.

Về vật chứng: Tịch thu sung công 04 chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo S và anh Tr sử dụng vào việc phạm tội.

- Bà Lê Thị H3 người giám hộ cho bị cáo K tại phiên tòa thừa nhận bị cáo K trình bày đúng như tại cơ quan điều tra, cháu K còn trẻ, mong HĐXX xem xét cho cháu có cơ hội về tiếp tục việc học và làm lại cuộc đời.

- Ông Lê Quang Đ người bào chữa cho bị cáo K: nhất trí với phần luận tội của đại diện VKS, đề nghị HĐXX xem xét K có nhiều thành tích trong quá trình học tập, gia đình thuộc hộ cận nghèo là các tình tiết giảm nhẹ để cho K có cơ hội về tiếp tục học tập và trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo trình tự thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng hình sự. Ngoài ra quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì khác về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng hình sự quy định.

[2] Xét việc không xem xét xử lý hình sự đối với Nguyễn Đức Tr: Xét Nguyễn Đức Tr hành vi phạm tội đã rõ, nhưng thuộc loại tội nghiêm trọng, Trung phạm tội khi được 15 tuổi 3 tháng 17 ngày, căn cứ khoản 2 Điều 12 của BLHS, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên không xem xét hình sự đối với Trung mà xử lý hành chính bằng hình thức Cảnh cáo là có căn cứ.

[3]. Về hành vi phạm tội: Xét thấy ngày 26/5/2021 Công an huyện Gia Lâm kiểm tra hành chính căn hộ 2109 tòa S2-11 VHO, xã ĐT, Gia Lâm, Hà Nội phát hiện Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K, Nguyễn Đức Tr, Phạm Hải Y. Sau khi làm việc, S, H, K, Tr đều khai nhận có hành vi giả làm người của công ty xổ số biết trước số lô số đề về trong ngày để bán cho khách nhằm chiếm đoạt tiền của khách, S giao nộp các vật chứng là 03 chiếc điện thoại Iphone 6 và 6s, Tr giao nộp 01 điện thoại Oppo chứa các nội dung giao dịch với khách. Sau khi ủy thác điều tra, ngày 21/7/2011 anh Lê Minh T trình bày là anh đã chuyển khoản 3.000.000 đồng mua số lô, số đề của nick zalo Xổ số Minh Ngọc nhưng không đánh theo, mà theo dõi kết quả nhưng không trúng. Lời khai của 3 bị cáo S, H, K và anh T phù hợp với nhau, phù hợp với tài liệu của Bưu điện, của Ngân hàng MB về giao dịch chuyển tiền đến tài khoản của Nguyễn Xuân Anh, phù hợp với các đoạn tin nhắn chát nick zalo Le T của anh T, nick zalo Xổ số Minh Ngọc của bị cáo S, nên đủ cơ sở kết luận ngày 19/5/2021 các bị cáo S, H, K đã có hành vi gian dối bằng cách giả là người của Công ty xổ số bán số lô số đề cho khách để nhằm chiếm đoạt tiền của anh Lê Minh T với số tiền là 3.000.000 đồng, hành vi của 3 bị cáo S, H, K đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, với tình tiết định khung tại khoản 2 là có tổ chức do các bị cáo có phân công nhiệm vụ, vai trò. S với vai trò là người chủ mưu, người thực hành, người dụ dỗ lôi kéo người dưới 16 tuổi phạm tội theo điểm o khoản 1 Điều 52 của BLHS; bị cáo H và K với vai trò người giúp sức. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải xử mức án tù trong khung hình phạt để răn đe chung, tuy nhiên nhân thân các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự khắc phục hậu quả cho người bị hại, phạm tội gây thiệt hại không lớn là các tình tiết giảm nhẹ quy định lần lượt tại các điểm s, b, h khoản 1 Điều 51 của BLHS; các bị cáo phạm tội lần đầu, bị cáo K thuộc gia đình hộ cận nghèo, quá trình học tập có thành tích tốt đạt huy chương vàng, huy chương bạc cấp thành phố môn Pencatxilat các năm 2018, 2019, 2020 là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS. Do 03 bị cáo S, H, K có 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo S có 01 tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Xét thấy các bị cáo đều có từ 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, các bị cáo phạm tội có tổ chức nhưng giản đơn, có nơi cư trú ổn định, xét cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự nên cho các bị cáo được hưởng án treo theo Điều 65 của BLHS, Điều 2 Nghị quyết 02/2015/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều 65 của BLHS về án treo là có căn cứ.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với các bị cáo theo khoản 5 Điều 174 của BLHS là có căn cứ.

[5]. Về dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của 3 bị cáo S, H, K đã bồi thường xong cho anh Lê Minh T số tiền là 3.000.000 đồng. Trả anh Lê Minh T 3.000.000 đồng tại Biên lai số AA/2020/0054885 ngày 05/01/2022 của Chi cục THADS huyện Gia Lâm.

[6] Về vật chứng:

+ 3 chiếc điện thoại di động Iphone thu giữ của S và 01 chiếc điện thoại thu giữ của anh Nguyễn Đức Tr sử dụng vào việc phạm tội, cho tịch thu sung công là đúng với quy định tại Điều 106 BLTTHS và Điều 47 BLHS.

+ Đối với chiếc thẻ Ngân hàng MB tên Nguyen Xuan A thu giữ của bị cáo S là tang vật của vụ án, tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án.

[7]. Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Về án phí dân sự, 3 bị cáo đã tự nguyện bồi thường xong trước phiên tòa nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[8]. Với những người khác liên quan trong vụ án:

- Đối với chị Nguyễn Xuân A: Chị A khai không biết việc làm thuê thẻ Ngân hàng để cho người khác thực hiện hành vi phạm tội nên không xử lý hình sự đối với chị A là có căn cứ.

- Đối với chị Lê Thị Mai L: Chị L khai không biết việc các bị cáo thuê nhà của chị để thực hiện hành vi phạm tội nên không xử lý hình sự đối với chị Lương là có căn cứ.

- Đối với chị Phạm Hải Y: Chị Y khai là người yêu của bị cáo S, trong thời gian sống chung chị Y chỉ làm công việc nội trợ và dọn dẹp nhà cửa, không biết gì việc các bị cáo S, H, K làm; Các bị cáo trình bày chị Y không biết hành vi phạm tội của các bị cáo nên không xử lý hình sự đối với chị Y là có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K cùng phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 174, điểm s b h khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm o khoản 1 Điều 52 đối với bị cáo S, Điều 101 đối với bị cáo K, Điều 65, Điều 17, Điều 58, Điều 47 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 106, các Điều 136, 299, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Điều 65 của BLHS về án treo;

Căn cứ vào điểm a, f khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Xử phạt:

+ Bị cáo Dương Thanh S 27 (Hai mươi bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 54 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo S về UBND xã HP, huyện UH, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

+ Bị cáo Kiều Văn H24 (Hai tư) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo H về UBND xã LH, huyện UH, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

+ Bị cáo Nguyễn Xuân K 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo K về UBND xã ĐT, huyện MĐ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2.Về hình phạt bổ sung: Không 3.Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận 3 bị cáo Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K đã tự nguyện bồi thường thiệt hại xong cho anh Lê Minh T số tiền là 3.000.000 đồng. Anh T không yêu cầu gì khác về dân sự, HĐXX không xem xét giải quyết.

Trả lại anh Lê Minh T 3.000.000 đồng tại Biên lai số AA/2020/0054885 ngày 05/01/2022 của Chi cục THADS huyện Gia Lâm.

4.Về vật chứng:

+ Tịch thu sung công 03 chiếc điện thoại Iphone thu giữ của bị cáo S gồm:

01 Iphone 6s màu xám, lắp sim, đã qua sử dụng; 01 Iphone 6 màu vàng, lắp sim, đã qua sử dung; 01 Iphone 6s màu xám, lắp sim, đã qua sử dụng.

+ Tịch thu sung công 01 chiếc điện thoại Oppo A37F màu vàng, đã qua sử dụng của Nguyễn Đức Tr Tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/01/2022 với Chi cục THADS huyện Gia Lâm.

+ Tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án 01 thẻ Ngân hàng MB mang tên Nguyen Xuan A.

5.Về án phí: Các bị cáo Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

6.Về quyền kháng cáo: Báo cho các bị cáo Dương Thanh S, Kiều Văn H, Nguyễn Xuân K có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

568
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 23/2022/HS-ST

Số hiệu:23/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;