Bản án về tội giết người số 133/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BN ÁN 133/2022/HS-ST NGÀY 08/11/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 08 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 135/2022/TLST-HS ngày 13/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:136/2022/QĐXX-ST ngày 14/10/2022. Thông báo dời ngày xét xử số 63/TB-TA ngày 26/10/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Thanh G (tên gọi khác Phan Thúy G), sinh ngày 19 tháng 6 năm 2001 tại tỉnh C Nơi đăng ký thường trú: xã Nguyễn H, huyện Đ, tỉnh C.

Chỗ ở hiện nay: Ấp 9, xã G, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Thanh B, sinh năm 1980, và con bà Lê Thị Ph, sinh năm 1979; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; Chưa có vợ, con:

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 12/01/2018, Phan Thanh G bị Công an huyện Ng, tỉnh C xử phạt hành chính về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác” với hình thức cảnh cáo.

- Ngày 16/12/2019, Phan Thanh G bị Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác” với hình thức cảnh cáo Ngày 08/9/2021, bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 147/L-CSHS(Đ4) ngày 08/9/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.

Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Xuân Tr, thuộc Văn phòng luật sư Xuân Tr – Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.

Bị hại: Anh Trần Thanh Tr, sinh 1991.

Đa chỉ: 246 B, ấp A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ.

(Bị cáo và bị hại có mặt, Luật sư bào chữa cho bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh Tr, sinh năm 1991, thường trú tại: 246 B, T, ấp A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ và Phan Thanh G là bạn bè chơi chung với nhau và thường xuyên góp tiền để chơi điện tử.

Vào khoảng 02 giờ ngày 29/12/2020, Ngô Xuân N, sinh năm 1992, thường trú: Thôn T, ấp A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ; Phan Thanh G và Trần Thanh Tr bàn bạc với nhau mượn điện thoại của T (không rõ nhân thân lai lịch, là bạn của G) để Tr đứng ra cầm cho anh Cao Văn Th, sinh năm 1988, trú tại: ấp 6, xã V, huyện V, tỉnh Đ là chủ tiệm Internet “Net H 3” thuộc T, ấp A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ vay 1.000.000 đồng chia nhau tiêu xài và chơi điện tử tại tiệm anh L. Cả nhóm thỏa thuận sẽ gom tiền để chuộc lại điện thoại trả cho T. Tuy nhiên một lúc sau, Tr tự thỏa thuận với anh Th vay thêm 500.000 đồng nhưng không bàn bạc với G và Nam.

Khong 06 giờ cùng ngày 29/12/2020, G và N cầm 1.000.000 đồng đến chuộc nhưng không đủ tiền và cũng không liên lạc được với Tr nên cả hai đến thỏa thuận với chị Nguyễn Thị H (vợ anh Th), sinh năm 1990, trú tại: ấp 6, xã V, huyện V, tỉnh Đ lấy điện thoại đi cầm chỗ khác để lấy tiền trả cho anh Th. N và G đem điện thoại đến tiệm điện thoại “Thái V” của anh Thạch Văn V, sinh năm 1991; Địa chỉ: T, ấp A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ gần đó cầm với số tiền 1.700.000 đồng, sau đó G trả 1.500.000 đồng cho chị H nhưng anh Th không biết.

Khong 07 giờ 30 phút cùng ngày, anh Cao Văn Th gọi điện cho Tr nói G đã lấy điện thoại nhưng chưa trả tiền. Sau khi nghe anh Th nói vậy, Tr tự ái và nghĩ G tự ý lấy điện thoại mà không hỏi ý kiến của Tr nên đi tìm G để nói chuyện. Khoảng 10 giờ ngày 30/12/2020, Tr nhờ Lê Hoàng Tr, sinh năm 2000, trú tại thôn T, ấp A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ chở đi tìm G, sau đó Tr chở cả Tr và G đến phòng trọ của bạn Tr tại ấp A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ. Tại đây, Tr nói việc G và N chuộc điện thoại mà không nói cho Tr biết rồi Tr dùng tay đấm ba cái vào mặt và dùng chân đá vào người G.

Bực tức vì chuyện này nên G nảy sinh ý định đánh Tr. Vào lúc 03 giờ ngày 01/01/2021, G thấy Tr đang ngồi chơi Internet trong tiệm “Net H 3” nên đi ra sau tiệm lấy 01 con dao bằng sắt dài khoảng 20cm, dùng giấy cứng và băng keo quấn lại làm cái vỏ để đựng dao. G cầm dao đi ra sau lưng Tr, vòng tay trái kẹp cổ, tay phải cầm dao đâm vào ngực trái của Tr, Tr vùng đứng dậy quay người lại đưa tay giữ con dao. G giằng lấy dao đâm tiếp nhiều nhát vào vùng ngực của Tr nhưng không trúng do Tr dùng tay phải đỡ được và mọi người căn ngăn đưa Tr đi cấp cứu. Biên bản nhận dạng qua ảnh do Ngô Công T, sinh năm 1996, trú tại A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ; Phan Văn T, sinh năm 1985, trú tại T, ấp A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ thực hiện, kết quả T và T nhận ra người có hành vi dùng dao đâm Trần Thanh Tr vào sáng ngày 01/01/2021 tại tiệm Internet “Net H 3” là Phan Thanh G.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 10 giờ 30 phút ngày 01/01/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai xác định hiện trường xảy ra vụ án tại tiệm Internet H 3, ở ấp A, xã B, huyện Tr, tỉnh Đ.

Quá trình khám nghiệm, Cơ quan điều tra có chụp ảnh, vẽ sơ đồ hiện trường, thu giữ 01 vật giống vỏ dao được làm bằng giấy cứng có quấn băng keo bên ngoài kích thước 03x22cm.

Đi với con dao bằng sắt dài khoảng 20cm, sau khi phạm tội G đã vứt mất nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tuyên tịch thu tiêu hủy 01 vật giống vỏ dao làm bằng giấy cứng phía ngoài quấn băng keo, kích thước 03x22cm.

Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 0548/TgT/2021 ngày 05/7/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai xác định thương tích của Trần Thanh Tr như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương thành tim đã phẫu thuật điều trị.

- Vết thương tim đã phẫu thuật điều trị hiện để lại di chứng rối loạn chức năng tâm trương và nhịp nhanh xoang.

- Vết thương nhu mô phổi đã phẫu thuật không để lại di chứng.

- Tổn thương động mạch quay phải không để lại thiểu dưỡng.

- Sẹo mổ ngực trái dọc theo khoang liên sườn VI kích thước 15,5cmx0,3cm.

- Sẹo vết thương khoang liên sườn III cạnh xương ức bên trái kích thước 02cmx0,3cm.

- Sẹo mổ dẫn lưu ngực bên trái kích thước 03x0,5cm.

- Sẹo vết thương trên nền vết mổ cẳng tay phải kích thước 16x0,3cm.

- Sẹo mổ cẳng tay phải kích thước 3,5x0,3m.

- Sẹo ngón 1 tay trái kích thước 02x0,2cm.

2. Kết luận:

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây lên tại thời điểm giám định của nạn nhân Trần Thanh Tr là 60% (Sáu mươi phần trăm).

Tại Bản Kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 0308/ĐT/2022 ngày 25/3/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai xác định: Độ tuổi của Phan Thanh G là 21 tuổi (+/- 06 tháng) kể từ ngày giám định 24/3/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Trần Thanh Tr yêu cầu Phan Thanh G bồi thường 70.000.000 đồng tiền chi phí điều trị thương tích. Hiện G chưa bồi thường.

Căn cứ Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tuyên buộc bị cáo Phan Thanh G bồi thường thiệt hại cho bị hại Trần Thanh Tr theo quy định pháp luật.

I. Cáo trạng số 4730/CT-VKS-P2 ngày 06/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Phan Thanh G về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 và Điều 15 Bộ luật Hình sự.

II. Ý kiến của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo xác định tất cả lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc hay bức cung. Kết luận điều tra cũng như Bản cáo trạng truy tố bị cáo ra trước tòa hoàn toàn phù hợp với hành vi của bị cáo đã thực hiện. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

III. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa:

3.1. Về tội danh, trách nhiệm hình sự, quan điểm truy tố và điều luật áp dụng: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phan Thanh G về tội“Giết người”.

3.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không 3.3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

3.4. Điều luật áp dụng và mức án đề nghị: Áp dụng điển n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và 2 Điều 51; Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Đề nghị xử phạt bị cáo Phan Thanh G mức án từ 12 (mười hai) đến 14 (mười bốn) năm tù.

3.5. Về trách nhiệm dân sự: Buc bị cáo phải bồi thường số tiền chi phí điều trị cho bị hại theo quy định của pháp luật.

3.6. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 và 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy tang vật vụ án không có giá trị sử dụng.

3.7. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

IV. Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Phan Thanh G theo quy định của pháp luật trình bày tại bài bào chữa:

Hành vi của bị cáo Phan Thanh G đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123; và Điều 15 Bộ Luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo G đã xâm hại đến quyền về tính mạng, sức khỏe của người bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và đáng bị lên án. Tuy nhiên, bị cáo G đã ăn năn, hối cải, thành thật khai báo và mong muốn khắc phục hậu quả cho người bị hại, chưa có tiền án, thuộc thành phần lao động có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị hại có một phần lỗi. Từ trình bày trên kính đề nghị Hội đồng xét xử công tâm xem xét cho bị cáo mức hình phạt phù hợp với hành vi sai phạm của của bị cáo, mang tính giáo dục hơn là hình phạt để bị cáo có cơ hội cống hiến cho gia đình bị cáo và xã hội nói chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử cũng như tại phiên tòa, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ, quyền được bào chữa và tự bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều phù hợp.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo theo chỉ định có đơn xin vắng mặt có gửi bài bào chữa cho bị cáo và Hội đồng xét xử. Tại phiên tòa bị cáo cũng đồng ý với sự vắng mặt của Luật sư. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt đối với Luật sư.

[2] Về nội dung:

2.1. Về hành vi của bị cáo bị truy tố:

- Tại phiên tòa bị cáo Phan Thanh G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ, kết quả giám định thương tật, giám định vật chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám xét, biên bản thu nhận vật chứng, cùng các chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ trong vụ án, hành vi của bị cáo trong vụ án này được xem xét đánh giá toàn diện trong mối quan hệ với chứng cứ khác để xác định đúng bản chất của vụ án, phù hợp với hành vi của bị cáo thực hiện mà Kết luận điều tra cũng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã mô tả.

2.2. Về tội danh và Điều luật áp dụng:

Do có mâu thuẫn trong sinh hoạt, vào khoảng 03 giờ ngày 01/01/2021, Phan Thanh G đã có hành vi dùng 01 con dao bằng sắt dài khoảng 20cm đâm một nhát vào vùng ngực trái của anh Trần Thanh Tr gây thương tích vết thương tim và thành tim, anh Tr đưa tay cầm giữ lấy dao của Phan Thanh G thì bị G giằng lấy dao và tiếp tục đâm nhiều cái vào vùng ngực anh Tr do anh Tr dùng tay phải đỡ được nên không trúng và được cấp cứu kịp thời. Hậu quả Trần Thanh Tr bị thương tích 60%. Hành vi của bị cáo Phan Thanh G đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” được quy định tại điển n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

2.3. Đánh giá về tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của bị hại, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đến cùng việc anh Tr không chết do yếu tố khách quan và được cấp cứu kịp thời, nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, coi thường tính mạng sức khỏe con người, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân nơi sinh sống. Về nhân thân bị cáo đã từng bị xử lý hành chính nhiều lần về các hành vi xâm hại sức khỏe cho người khác, nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng lấy đó làm bài học cho mình. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc nhằm mục đích giáo dục và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3]. Về hình phạt áp dụng cho bị cáo:

3.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không 3.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội “Giết người” thuộc trường hợp chưa đạt, học vấn thấp có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là dân lao động. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và 2 Điều 51 và Điều 15 Bộ luật Hình sự để xem xét cho bị cáo.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai và quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo tại bài bào chữa về hành vi phạm tội, tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được ghi nhận.

[5] Về phần trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa anh Tr yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền điều trị thương tật 70.000.000đ là có căn cứ nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hạn số tiền trên. [6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ tang vật vụ án không có giá trị sử dụng.

[7] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm và 3.500.000đ án phí Dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng pháp luật. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15; điểm s khỏan 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

2. Quyết định hình phạt: Xử phạt bị cáo Phan Thanh G 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2021, về tội “Giết người”.

3. Về bồi thường dân sự: Căn cứ Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho anh Trần Thanh Tr số tiền 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng).

4. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy: 01 vật giống vỏ dao làm bằng giấy cứng phía ngoài quấn băng keo, kích thước 03x22cm. (Biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 11/10/2022, phiếu nhập: NK23/006 ngày 11/10/2022).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự, Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

- Bị cáo Phan Thanh G phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm và 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

103
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 133/2022/HS-ST

Số hiệu:133/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;