Bản án về tội đánh bạc số 30/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 20 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2022 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử số: 08/TB-TA ngày 19 tháng 7 năm 2022, đối với:

Các bị cáo:

1. Võ Thị C, sinh năm 1968; tên gọi khác: Không; nơi sinh: tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn C, sinh năm 1927 (chết) và bà Võ Thị K, sinh năm 1930 (chết); có chồng Trương Văn H, sinh năm 1962 và có 02 người con, lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 1997; tiền án: Không; tiền sự: ngày 25/10/2021, Công an xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định xử phạt hành chính 1.500.000đồng về hành vi đánh bạc được thua bằng tiền bằng hình thức lắc tài xỉu (nộp phạt xong ngày 03/12/2021); tạm giữ: Không; tạm giam: không; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 19/LC-CSĐT, ngày 06 tháng 4 năm 2022 của Công an huyện T.

Bị cáo hiện đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Thị T, sinh năm 1964; tên gọi khác: Không; nơi sinh: tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: ấp A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Thanh H, sinh năm 19 (chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 19 (chết); có chồng Lê Văn N, sinh năm 1967 và có 02 người con, lớn sinh năm 1985, nhỏ sinh năm 1991; tiền án: Không; tiền sự: ngày 12/8/2021, Công an xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định xử phạt hành chính 1.500.000đồng về hành vi đánh bạc được thua bằng tiền bằng hình thức lắc tài xỉu (nộp phạt xong ngày 08/4/2022); tạm giữ: Không; tạm giam: không; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 21/LC-CSĐT, ngày 06 tháng 4 năm 2022 của Công an huyện T.

Bị cáo hiện đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

3. Hồ Văn H, sinh năm 1999; tên gọi khác: Không; nơi sinh: tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn Bé H, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1981; tiền sự: ngày 11/8/2021, Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định xử phạt hành chính 7.500.000đồng về hành vi “Tổ chức đánh bạc” (nộp phạt xong ngày 18/8/2021); tạm giữ: Không; tạm giam: không; Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 20/LC-CSĐT, ngày 06 tháng 4 năm 2022 của Công an huyện T.

Bị cáo hiện đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Lâm Trường A, sinh năm 1989, có đơn xin vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

2. Nguyễn Đức D, sinh ngày 09/3/2003, có đơn xin vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3. Nguyễn Dương L, sinh năm 1993, có đơn xin vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

4. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1983, có đơn xin vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng:

1. Lâm Bá V, sinh năm 1992, vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

2. Nguyễn Cu Đ, sinh năm 1992, vắng mặt.

Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Thị C, Phạm Thị T và Hồ Văn H đã có tiền sự về hành vi đánh bạc, cụ thể: Ngày 25/10/2021, Công an xã P xử phạt hành chính Võ Thị C 1.500.000 đồng, về hành vi “Đánh bạc” (nộp phạt xong ngày 03/12/2021); Ngày 12/8/2021, Công an xã P xử phạt hành chính Phạm Thị T 1.500.000 đồng, về hành vi “Đánh bạc” (nộp phạt xong ngày 08/4/2022); Ngày 11/8/2021, Ủy ban nhân dân huyện T xử phạt hành chính Hồ Văn H 7.500.000 đồng, về hành vi “Tổ chức đánh bạc” (nộp phạt xong ngày 18/8/2021). Tiếp tục, vào lúc 15 giờ 10 phút ngày 09/02/2022, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện T bắt quả tang tụ điểm đánh bạc (lắc tài xỉu) trái phép ăn thua bằng tiền tại ấp L, xã P, gồm có 08 người tham gia chơi gồm: Võ Thị C, Nguyễn Thị Cà Ph, Phạm Thị T, Nguyễn Thanh T, Hồ Văn H, Nguyễn Vương L, Lâm Trường A và Nguyễn Đức D. Đối với Nguyễn Cu Đ và Lâm Bá V không tham gia chơi.

Tang vật thu giữ tại chiếu bạc, gồm: tiền Việt Nam 600.000 đồng, 01 bộ lắc tài xỉu (gồm: 01 hộp nhựa, 01 chén sành và 03 viên xí ngầu) và 01 tấm bạc nhựa sọc – trắng – xanh – đen (kích thước 3,6 x 2,8 mét).

Thu giữ trên người: của Võ Thị C 1.700.000 đồng, Nguyễn Thị Cà P 8.670.000 đồng, Phạm Thị T 1.140.000 đồng, Nguyễn Cu Đ 80.000 đồng, Hồ Văn H 950.000 đồng, Nguyễn Đức D 470.000 đồng.

Quá trình điều tra, Võ Thị C, Phạm Thị T và Hồ Văn H thừa nhận:

- Võ Thị C khai: Vào khoảng 14 giờ ngày 09/02/2022, đến tụ điểm lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền tại khu đất trống thuộc ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp tham gia chơi với những người nêu trên. Khi đi, C mang theo 1.500.000 đồng, lấy ra 200.000 đồng chơi tài xỉu, còn lại 1.300.000 đồng dùng để sinh hoạt trong gia đình. C đặt cược mỗi bàn từ 10.000 đồng – 50.000 đồng, tham gia chơi khoảng 20 phút bị bắt quả tang, thu giữ trên người 1.700.00 đồng (trong đó trả tiền test Covid 19 cho C là 100.000 đồng), còn thu giữ 1.600.000 đồng, C không biết ai tổ chức và lấy tiền xâu.

- Phạm Thị T khai: Vào khoảng 14 giờ ngày 09/02/2022, T đi chợ về ngang nhà R thấy có nhiều xe mô tô đậu phía trước, T đi ra khu đất trống thuộc ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp tham gia chơi lắc tài xỉu ăn tiền với những người nêu trên. Khi đi, T mang theo 1.200.000 đồng, lấy ra 200.000 đồng chơi tài xỉu, còn lại 1.000.000 đồng dùng để sinh hoạt trong gia đình. T đặt cược mỗi bàn từ 10.000 đồng – 30.000 đồng, tham gia chơi khoảng 20 phút thì bị bắt quả tang, thu giữ trên người 1.140.00 đồng (trong đó trả tiền test Covid 19 cho T là 100.000 đồng), còn thu giữ 1.040.000 đồng, T không biết ai tổ chức và lấy tiền xâu.

- Hồ Văn H khai: Vào khoảng 13 giờ 10 phút ngày 09/02/2022, H đến khu đất trống thuộc ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp tham gia lắc tài xỉu ăn tiền với những người nêu trên. Khi đi, H mang theo 330.000 đồng, H đặt cược 02 bàn bên xỉu, mỗi bàn 50.000 đồng, thua 100.000 đồng, còn lại 230.000 đồng, thời điểm H đặt cược do N (không rõ họ, năm sinh và địa chỉ) làm cái lắc.

Đến 14 giờ cùng ngày, Lâm Trường A vào làm cái lắc thay N (mỗi người làm cái lắc 01 giờ đồng hồ). Do quen biết, A kêu H giữ 950.000 đồng và chung chi tiền dùm cho A, A làm cái lắc khoảng 10 phút, không nhớ bao nhiêu bàn thì công an đến, H bỏ chạy thì bị bắt giữ, thu giữ trên người H 950.000 đồng tiền của A đưa, còn 230.000 đồng của H bị rớt mất khi bị công an rượt đuổi, H không biết ai tổ chức và lấy tiền xâu.

Hình thức đánh bạc trên của các bị cáo là lắc tài xỉu (03 hột xí ngầu, mỗi hột có 06 mặt từ 01 đến 06 điểm), nếu nhà cái lắc 03 hột xí ngầu đổ ra đếm tổng cộng 11 điểm trở lên người đặt cược bên tài thắng, còn 10 điểm trở xuống bên xỉu thắng. Nếu 03 hột xí ngầu đổ ra 03 mặt giống nhau 1-1-1, 2-2-2, 3-3-3 gọi là “Bảo” nhà cái thắng của những người đặt cược bên tài, còn 03 mặt giống nhau 4- 4-4, 5-5-5, 6-6-6 nhà cái thắng của những người đặt cược bên xỉu; tỷ lệ đặt cược bao nhiêu thắng bấy nhiêu (như đạt cược 10.000 đồng thì thắng 10.000 đồng và ngược lại).

Tại Cáo trạng số: 32/CT-VKS-TN ngày 22 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Võ Thị C, Phạm Thị T và Hồ Văn Huy phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 và khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên phân tích các tình tiết cấu thành tội phạm và khẳng định cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đối với bị cáo H do có tiền sự về tội tổ chức đánh bạc nên khi lượng hình cần xem xét mức án cao hơn các bị cáo C và T.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65; khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Võ Thị C, phạm tội “Đánh bạc” mức án từ 09 tháng đến 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm. Tình tiết tăng nặng: Không. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Phạm Thị T, phạm tội "Đánh bạc” mức án từ 09 tháng đến 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm. Tình tiết tăng nặng: Không. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Hồ Văn H, phạm tội "Đánh bạc” mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm. Tình tiết tăng nặng: Không. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về vật chứng: Giữ nguyên theo Cáo trạng.

- Bị cáo Võ Thị C khai: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “Đánh bạc” như nội dung cáo trạng đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo không tham gia tranh luận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

- Bị cáo Phạm Thị T khai: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “Đánh bạc” như nội dung cáo trạng đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo không tham gia tranh luận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

- Bị cáo Hồ Văn H khai: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “Đánh bạc” như nội dung cáo trạng đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo không tham gia tranh luận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm pháp quả tang ngày 09/02/2022 của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện T; Tờ tự khai ngày 09/02/2022 của bị cáo T, tờ tự khai ngày 09/02/2022 của bị cáo C, tờ tự khai ngày 09/02/2022 và ngày 11/02/2022 của bị cáo H; Lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng toàn bộ chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 15 giờ 10 phút ngày 09/02/2022, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện Tam Nông bắt quả tang Võ Thị C, Phạm Thị T và Hồ Văn H đang đánh bạc (lắc tài xỉu) ăn thua bằng tiền với những người tham gia nêu trên tại ấp L, xã P thu giữ tại chiếu bạc, gồm: tiền Việt Nam 600.000 đồng, 01 bộ lắc tài xỉu (gồm:

01 hộp nhựa, 01 chén sành và 03 viên xí ngầu) và 01 tấm bạc nhựa sọc – trắng – xanh – đen (kích thước 3,6 x 2,8 mét).

Tuy số tiền thu giữ tại chiếu bạc không đủ định lượng để t ruy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng bản thân các bị cáo C, T đã có tiền sự về hành vi đánh bạc và H đã có tiền sự về hành vi tổ chức đánh bạc, đến ngày 09/02/2022 chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 7 và Điều 74 của Luật xử phạt vi phạm hành chính nhưng tiếp tục vi phạm. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Đánh bạc” theo quy định của Bộ luật Hình sự đã quy định.

Giữa các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là đồng phạm; không thuộc dạng phạm tội có tổ chức mà chỉ là đồng phạm giản đơn do các bị cáo thấy có nhiều người tham gia đánh bạc nên đến địa điểm chơi đánh bạc chứ không có sự sắp xếp, phân công cụ thể, rõ ràng vai trò trước khi phạm tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất ổn định an ninh trật tự ở địa phương, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Đánh Bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mức hình phạt theo điều luật quy định là tiền từ 20.000.000đồng đến 100.000.000đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] Đánh bạc ăn thua bằng tiền là trái phép. Trong thời gian gần đây tệ nạn đánh bạc trái phép nhiều bằng hình thức như: đánh bài, số đề… diễn ra hết sức phức tạp, đang có chiều hướng gia tăng gây ra nhiều hậu quả xấu cho xã hội. Bản thân bị cáo có đủ khả năng nhận thức được điều này nhưng vì thích cờ bạc và lười biếng lao động đã đưa bị cáo đi đến con đường phạm tội nên cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa;

Bị cáo C thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có chồng Trương Văn H tham gia chiến trường Campuchia được Chủ Tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng 3 và Huân chương chiến sĩ vẽ vang hạng 3, có cha ruột Võ Văn C và mẹ ruột Võ Thị K tham gia kháng chiến chống mỹ cứu nước được Chủ Tịch nước tặng thưởng Huy chương chiến công hạng nhì nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không.

Các bị cáo T và H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không. Ngoài ra, đối với bị cáo H đã có tiền sự về tội “Tổ chức đánh bạc” nên cần xem xét mức án cao hơn các bị cáo C và T.

Xét thấy, về ý thức và hành vi của các bị cáo C, T và H không phải đánh bạc chuyên nghiệp ăn thua bằng tiền mà do bị cáo nhất thời ham vui nên dẫn đến phạm tội. Về nhân thân các bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà áp dụng hình phạt cho các bị cáo hưởng án treo giáo dục tại địa phương cũng đủ răn đe các bị cáo trở thành công dân tốt là phù hợp theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

[4] Hình phạt bổ sung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xét thấy bản thân các bị cáo C, T làm ruộng và H làm thuê thu nhập thấp nên không áp dụng.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với số tiền thu giữ của Nguyễn Thị Cà P 8.670.000 đồng, sử dụng đánh bạc 200.000 đồng, còn lại 8.470.000 đồng không sử dụng đánh bạc; Nguyễn Cu Đ 80.000 đồng (không tham gia đánh bạc); Hồ Văn H 950.000 đồng (tiền của Lâm Trường A đưa H sử dụng đánh bạc); Nguyễn Đức D 470.000 đồng, sử dụng 170.000 đồng đánh bạc, còn lại 300.000 đồng không sử dụng đánh bạc. Cơ quan điều tra chứng minh số tiền còn lại của Cà P, Đ, D không sử dụng đánh bạc nên đã trao trả lại xong. Riêng số tiền sử dụng đánh bạc của Cà Phal là 200.000đồng, H là 950.000đồng (tiền của Lâm Trường A đưa H sử dụng đánh bạc) và D là 170.000đồng, Cơ quan điều tra đã xử lý tịch thu trong Quyết định xử lý vi hành chính xong nên không xem xét.

Đối với số tiền thu giữ của Võ Thị C 1.700.000 đồng (C đã trả tiền phí test Covid 19 là 100.000đồng, còn lại 1.600.000đồng), sử dụng đánh bạc 400.000 đồng, còn lại 1.200.000 đồng; Phạm Thị T 1.140.00 đồng (C đã trả tiền phí test Covid 19 là 100.000đồng, còn lại 1.040.000đồng), sử dụng đánh bạc 140.000 đồng, còn lại 900.000 đồng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chứng minh số tiền không liên quan đến đánh bạc đã trả lại cho T số tiền 900.000đồng và C số tiền 1.200.000đồng xong nên không xem xét.

Đối với số tiền thu giữ dùng mục đích đánh bạc của bị cáo C là 400.000đồng; bị cáo T là 140.000đồng; thu giữ tại chiếu bạc số tiền 600.000 đồng. Xét thấy, vật chứng trên là chứng cứ phạm tội của các bị cáo nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp theo điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 bộ lắc tài xỉu (gồm: 01 hộp nhựa, 01 chén sành và 03 viên xí ngầu) và 01 tấm bạc nhựa sọc – trắng – xanh – đen (kích thước 3,6 x 2,8 mét). Xét thấy, vật chứng trên là chứng cứ, công cụ, phương tiện và không còn giá trị thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp theo điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Đối với Nguyễn Thị Cà P, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Vương L, Lâm Trường A và Nguyễn Đức D tham gia đánh bạc (lắc tài xỉu) với các bị cáo C, T và H. Cơ quan điều tra chỉ chứng minh những người nêu trên tham gia đánh bạc 01 lần và chưa có tiền án, tiền sự, số tiền thu giữ tại chiếu bạc và trên người không đủ định lượng để xử lý hình sự về hành vi “Đánh bạc” nên Công an huyện Tam Nông đã ra quyết định phạt vi phạm hành chính xong nên không xem xét. Ngoài ra, những người trên tham gia đánh bạc với nhau khai không biết ai tổ chức và lấy tiền xâu nên không có cơ sở xem xét tổ chức đánh bạc.

[7] Đối với Lâm Bá V và Nguyễn Cu Đ, Cơ quan điều tra chứng minh không tham gia đánh bạc chung với những người nêu trên nên không xem xét xử lý trách nhiệm.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65; khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Võ Thị C phạm tội: “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Võ Thị C 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 tháng, kể từ ngày tuyên án (ngày 20/7/2022).

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Võ Thị C cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Thị T phạm tội: “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị T 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 08 tháng, kể từ ngày tuyên án (ngày 20/7/2022).

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Phạm Thị T cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Hồ Văn H phạm tội: “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Hồ Văn H 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm, kể từ ngày tuyên án (ngày 20/7/2022).

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Hồ Văn H cho Ủy ban nhân dân xã xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

4. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ lắc tài xỉu (gồm: 01 hộp nhựa, 01 chén sành và 03 viên xí ngầu) và 01 tấm bạc nhựa sọc – trắng – xanh – đen (kích thước 3,6 x 2,8 mét).

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: Tiền Việt Nam là 1.140.000đ (Một triệu, một trăm bốn mươi nghìn đồng).

(Tất cả vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp đang quản lý).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Võ Thị C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Phạm Thị T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Hồ Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 30/2022/HS-ST

Số hiệu:30/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;